Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niệm Chết Cho Tất Cả Chúng Ta

02 Tháng Sáu 202211:44(Xem: 2311)
Niệm Chết Cho Tất Cả Chúng Ta
Niệm Chết Cho Tất Cả Chúng Ta

Margaret Meloni
Diệu Liên Lý Thu Linh


Niệm Chết Cho Tất Cả Chúng Ta

Tiến sĩ
 Margaret Meloni là cư sĩ tu theo Phật giáo Nguyên thủy. Bà là doanh nhân, và là tác giả của nhiều đầu sách.

Một ngày bình thường nọ, bà bỗng nhận ra rằng có những thách thức quan trọng hơn đang đến với bà. Bà nhận ra rằng những người bà yêu thương sẽ chết. Mẹ chồng bà, đã ngoài 90 tuổi, cha mẹ bà gần 80 tuổi. Bà bắt đầu tự hỏi: “Tôi phải làm sao khi những người tôi yêu thương nhất ra đi?”. Nhờ có tu tập theo Phật giáo, bà đã tìm được câu trả lời cho mình. Giờ bà đã quen với cái chết. Bà muốn giúp tất cả chúng ta chấp nhận cái chết như một phần thiết yếu của cuộc sống.

Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ: “Niệm chết, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tửcứu cánh là bất tử. Này các Tỳ-kheo, các Thầy hãy tu tập niệm chết”.

Sau đó, một số vị Tỳ-kheo lên tiếng và mô tả những cách thực hành chánh niệm khác nhau về cái chết. Người thì niệm rằng mình chỉ sống một ngày một đêm. Kẻ lại quán chỉ sống một ngày. Người khác nữa thì niệm chỉ sống qua một bữa ăn, hay chỉ nuốt xong bốn miếng cơm, hay chỉ kịp nhai một miếng cơm. Một vị khác mô tả mình chánh niệm về cái chết chỉ qua một hơi thở.

Sau khi lắng nghe những câu trả lời này, Đức Phật hướng dẫn tất cả các vị Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này tu tập niệm chết như sau: ‘Mong rằng ta sống ngày và đêm, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy’. Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này tu tập niệm chết như sau: ‘Mong rằng ta sống trọn ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy’. Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này tu tập niệm chết như sau: ‘Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn đồ ăn khất thựccho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy’.

Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này tu tập niệm chết như sau: ‘Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như vậy’. Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này tu tập niệm chết như sau: ‘Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như vậy’.

Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này tu tập niệm chết như sau: ‘Mong rằng cho đến khi nào sau khi thở vào, ta thở ra hay sau khi thở ra, ta thở vàocho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như vậy’. Này các Tỳ-kheo, những Tỳ-kheo ấy được gọi là những vị sống không phóng dậttu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc. Do vậy, này các Tỳ-kheo, các Thầy cần phải tu học như sau:

- Hãy sống không phóng dật! Ta sẽ tu tập một cách sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc.

- Như vậy, này các Tỳ-kheo, các Thầy cần phải học tập” (Sđd).

Toàn bộ cuộc thảo luận này diễn ra giữa Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Nhiều giáo lý quan trọng trong kinh điển Pāli diễn ra giữa Đức Phật và các đệ tử. Điều này đã khiến nhiều người hỏi tôi: “Những lời dạy này có liên quan đến cư sĩ không?”. Chắc chắn có những lúc Đức Phật đã giảng dạy đặc biệt cho các đệ tử xuất gia của mình. Tạng Vinaya (Luật) là một ví dụ điển hình. Và có những lời dạy mà Ngài chỉ dành cho cư sĩKinh Sigālovāda (Giáo thọ Thi-ca-la-việt) là một trong những ví dụ phổ biến nhất.

Khi Đức Phật thuyết giảng mà chỉ có sự hiện diện của các đệ tử xuất gia, có phải là cư sĩ không cần phải quan tâm đến những giáo lý này? Nếu những bài học này chỉ dành cho cộng đồng xuất gia, thì tại sao các Tăng sĩ lại đi khắp nơi để chia sẻ giáo lý mà họ đã được nghe từ Đức Phật?

Đức Phật đã dạy về khổ và cách giải thoát khỏi khổ. Tất cả chúng ta sẽ chết. Tất cả chúng ta sẽ được ích lợi từ việc có một cái chết bình an. Được sinh ra trong cõi người là một món quà hiếm có, không được để lãng phí.

Nếu bạn cảm thấy không thể quán rằng mình có thể chết giữa bữa ăn, thì hãy từ từ. Bắt đầu bằng những bước nhỏ. Bạn không cần phải ngay lập tức đi thẳng đến việc quán: “Tôi sẽ chết!”. Mặc dù một số người có thể có khả năng đó.

Nhiều người có thể được lợi ích từ việc thực sự suy ngẫm về sự thật rằng có khổ và nguồn gốc của khổ. Bắt đầu bằng cách quán xét Bốn sự thật cao quý (Tứ diệu đế). Chúng ta khổ, và nguồn gốc của khổ ấy được biết đến: đó là tham áitha nhân và hoàn cảnh; thêm nữa là ác cảm với một số điều nhất định, hoặc tha nhân, hoặc hoàn cảnh.

Giờ hãy quán xét về vô thường. Mọi thứ luôn thay đổi. Nên khi chúng ta càng bám vào các tưởng về cách mọi thứ phải như thế nào, cuộc sống của ta càng trở nên khó khăn. Bạn có thể bắt đầu bằng cách quán xét các kế hoạch trong ngày của mình. Đôi khi mọi thứ diễn ra chính xác như bạn tưởng tượng, trong khi những lần khác thì cả ngày là một thảm họa. Nhưng khi kế hoạch của ta sụp đổ, ta được có cơ hội học hỏi về vô thường.

Những kế hoạch không thành tựu là điển hình cho cái chết. Một cái gì đó bạn dựa vào đã biến mất. Một giả định trở nên không hợp lệ, một điều ấp ủ bị phá vỡ, một mối quan hệ kết thúc. Khi bạn bắt đầu thấy kế hoạch của mình đổ vỡ, hãy quán sát cảm xúc - với sự chấp nhận. Khi bạn cảm thấy thoải mái với sự không chắc chắn luôn là một phần trong cuộc sống, bạn có thể bắt đầu những dự án vượt ra ngoài kế hoạch hàng ngày của mình.

Các kế hoạch bạn đã soạn cho tuần, cho tháng và năm của bạn - tất cả được xây dựng trên cái tưởng của sự có thể kiểm soát và ảo tưởng về sự chắc chắnTuy nhiên, các kế hoạch này giúp chúng ta điều hướng cuộc sống của mình. Do đó, ta vẫn phải tiếp tục lập kế hoạch, với sự hiểu biết rằng vô thường sẽ có mặt. Một số kế hoạch, hoặc các yếu tố trong kế hoạch của ta, có thể bị gãy đổ. Và khi điều này xảy ra, hãy coi đó là cái chết. Hãy nhắc nhở bản thân rằng đây là một hình thức của cái chết. Và giờ, ta đang sống với cái chết.

Ngay khi có thể, bạn hãy chuyển từ cái chết của sự vật, của tư tưởng sang sự công nhận rằng bạn và những người thân yêu của bạn cũng phải chịu sự vô thường. Hãy luôn tự nhủ: “Một ngày nào đó tôi sẽ chết”, “Hôm nay có thể là ngày cuối cùng của tôi”. Quán tưởng về những điều này khi hành thiền và ghi nhận các cảm xúc của mình. Hãy nhận biết và quán sát các cảm xúc phát sinh. Cố gắng không phán xét, chỉ cần ghi nhận.

Mỗi ngày hãy đọc tụng Năm điều quán tưởng. Khi bạn dành thời gian theo dõi vô thường đến tận cùng qua sự tiến triển tự nhiên từ những kế hoạch bị gãy đổ đến cái chết của bạn, của những người thân yêu, thì dần dần bạn sẽ trở nên tự tại hơn với cái chết.

năm điều quán tưởng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2218)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2654)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2520)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2331)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2646)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2427)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3240)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2407)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2531)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2460)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2534)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2189)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2577)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3044)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2640)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2698)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2972)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2547)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2582)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4076)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2763)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3049)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3294)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2284)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2497)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2799)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2992)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2863)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2600)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2625)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3183)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2591)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2269)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2380)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2471)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2593)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2675)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2738)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3261)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2555)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2044)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2814)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2894)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2931)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2698)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2506)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2773)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2352)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant