Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ứng Dụng Thiền Trong Nếp Sống Của Hành Giả Thời Hiện Đại

13 Tháng Tám 202216:18(Xem: 2339)
Ứng Dụng Thiền Trong Nếp Sống Của Hành Giả Thời Hiện Đại

                                           Ứng Dụng Thiền Trong Nếp Sống Của Hành Giả Thời Hiện Đại

                                                                                     Thích Nữ Tuệ Phương

Thế Nào Là Sống Một Mình (độc Trú)

Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người. Các khóa tu tập thiền định, thiền quán dành cho Tăng NiPhật tử và người mến độ đạo Phật được tổ chức ở nhiều nơi trong và ngoài nước. Từ đó, nếp sống hành thiền đã đi sâu vào đời sống. Đây thật sự là một phương thức minh triết, trở về nếp sống tu tập thiền định để chuyển hóa tâm thức, nhằm đem lại bình an nội tại trong xã hội văn minhhiện đại ngày nay. 

GIỚI THUYẾT VỀ THIỀN

Bởi mang ý nghĩa “Bất lập văn tựgiáo ngoại biệt truyền”, “Thiền (trở nên) là cái phi lý nhất, khó quan niệm nhất trong đời” [14, tr.1992]. Tuy nhiênchúng ta vẫn có thể hiểu thiền từ nhiều phương diện khác nhau.

Định nghĩa về thiền: Thiền tiếng Pali là Jhàna, Phạn ngữ là Dhyana. Từ Jhàna hay Dhyana có nghĩa là tịnh lự hay tư duy. Trong đó, tịnh lự: Là để tâm vắng lặng mọi vọng thức điên đảo, mọi tư tưởng tư lự (mang tính chất thiền chỉ); tư duy: Là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tư những đối tượng của tâm thức (mang tính chất thiền quán). Từ ghép “thiền định”, với “định”: Phạn ngữ là Samadhi đi từ động từ căn là Dha, nghĩa là nhóm lại, tụ vào một điểm chính xáchợp lý. Như vậy, “thiền định” được hiểu là một phương pháp làm cho tâm vắng lặng, đưa tâm đến trạng thái chuyên chúnhất tâm.

Thiền sư Huệ Hải cũng định nghĩa về thiền định như sau: “Vọng niệm chẳng sanh là thiền, thấy bản tánh là định”. Cũng trong ý đó, Lục tổ Huệ Năng nói: “Bên ngoài dứt tất cả các huyễn tướng ấy gọi là thiền, bên trong đoạn trừ tất cả các tâm niệm loạn độngtà vạy ấy gọi là định” [6, tr.187].

Từ các định nghĩa trên, ta thấy thiền định là một phương pháp làm cho thân chánh tâm an, dứt trừ mọi ràng buộc vọng động, hướng tâm thẳng vào đối tượng để khám phá sự thật của chính nó. Thiền gọi đó là “Ngộ”. Ngộ là ý nghĩa quan trọng trong thiền. Thiền không thể thiếu sự chứng ngộ, sự chứng ngộ không thể tách rời thiền. Đó là chất keo tạo nên ý nghĩa rốt ráo và đầy ý vị trong thiền.

Phân loại 

Theo truyền thống tu tập, thiền của Phật giáo gồm hai nhánh lớn là: Thiền chỉ và thiền quán.

– Thiền chỉ: Tự điển Phật học của Đoàn Trung Còn định nghĩa: “Chỉ” tiếng Phạn là Samatha, tức là ngưng lại, tắt đi… là ngừng tắt cái tâm náo động của mình, khiến cho tâm định chỉ về một nơi. Nói cho dễ hiểu, “chỉ” là dừng lại, là “chế tâm nhất xứ”. Bởi vì tâm chúng sanh là con vượn chuyền cành lao xao loạn động nên muốn định, trước phải dùng thiền chỉ, một hình thức trú tâm trên một đối tượng nhất định. Chẳng hạn như trú tâm vào hơi thở vào và ra, bạn chỉ ý thức về hơi thở vào ra mà tuyệt nhiên không để tâm rong ruổi theo trần cảnh. Đây là bước đầu của người hành thiền vậy.

– Thiền quán (vipassana): Là phương pháp tu tập bằng cách theo dõi, phân tích một đối tượng qua cái nhìn tư duy vận chuyển trên nền tảng Duyên khởi hay ba pháp ấn, tức là chánh tư duyThiền quán là sắc thái trí tuệ đặc biệt của thiền Phật giáo.

Thiền chỉ và thiền quán đều thể hiện rõ đặc trưng của thiền là tịnh chỉ, là định, là hướng đến tuệ. Cho nên, điểm gặp nhau đáng chú ý của hai loại thiền này là cùng dùng đến điểm trú tâm. Bởi nếu “chỉ” là dừng tâm thì cũng phải dùng tâm trên một đối tượng nào đó; và nếu “quán” là soi chiếu, là nhìn và thấy thì cũng phải có sự trú tâm trên đối tượng cụ thể, sự soi chiếu mới đưa đến nhất tâm được. Chỉ và quán là hai pháp tu của thiền Phật giáo, tuỳ căn cơtrình độ và tuỳ “hoàn cảnh tâm” mà chọn thiền chỉ hay thiền quán cho thích hợpHành giả cần biết rõ mình đang cần chỉ hay quán cho tâm hiện tại. Xét cho cùng, phương thức thực hành thiền định rốt ráo nhất vẫn là chỉ quán song tu.

THIỀN VÀ TƯ TƯỞNG SỐNG

Tinh thần vô cầu

Tinh thần vô cầu không nên hiểu theo nghĩa ngộ nhận là không được mong cầu gì cả, chỉ ăn không ngồi rồi, ai cho gì thì tốt, không cũng tốt; không phải theo chiều hướng thụ động như vậy. Vô cầu ở đây chính xác là thiểu dục tri túc, biết đủ với những với những gì mình đang có. Chúng không phải là một giáo lý khuyến khích sự tự mãn mà biểu lộ thái độ sống biết đủ với những nhu cầu chính đáng của con người

Thiểu dục tri túc

Nguyên nghĩa là ít ham muốn – biết đủ. Pháp này thuộc về lĩnh vực đạo đứcgiới hạnh, là hệ quả của tri thức sâu xa bắt nguồn từ sự chứng ngộ của Đức PhậtTri thức ấy, về nhận thức là xác chứng theo nguyên lý duyên khởi hình thành nên vũ trụ vạn hữu, về mặt giới đức là từ bỏ hai cực đoan sống đam mê trong dục vọng và khắc khổ huỷ hoại bản thânTuy nhiên, nó hoàn toàn không phải là một giáo điều cứng nhắc trói buộc con người, vì nói biết đủ chứ không nói bao nhiêu là đủ; cũng như nói ít ham muốn, chứ không nói chừng nào mới là ít ham muốn. Nên thiểu dục tri túc giúp chúng ta cân bằng lại sự sống, không đắm vào thỏa mãn những dục lạc bản thân, cũng không cực đoan khổ hạnh. Hai cực đoan này, lúc đi tìm thầy học đạoĐức Phật đã kinh qua nhưng thật sự không đem lại hạnh phúc cho bản thânTừ bỏ hai cực đoan này, đi trên con đường trung đạo, Ngài đã giác ngộ. Khi thành Chánh giácĐức Phật liền nhớ đến những người bạn cùng tu với mình đang mắc phải hai cực đoan này không thể tu tập giải thoát được. Ngài liền rời cội Bồ đề ở Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela) tiến về vườn Nai (Migadaya) chỗ chủ Thiên đọa xứ để độ cho năm anh em Kiều Trần Như (Kodãnnà). Mở đầu bài Sơ chuyển pháp luânĐức Phật dạy: “Này Kiều Trần Như! Năm ông hiện nay đang mắc phải một cái bệnh hiểm nghèo là bệnh chấp chặt một phía. Bắt nhục thể phải chịu khổ chỉ càng khiến tâm thần thêm rối loạnTrái lại, cho thân trọng bên này hoặc bên kia, đều không thể thành tựu đại đạo căn bảnVấn đề này, ta đã thấu rõ khi còn ở trong vương cung và khi ta cùng các ông tu khổ hạnh sáu năm. Xa lìa ép xác khổ hạnh lẫn dục lạc đó là con đường trung đạo, đưa đến giác ngộ tối cao” [4, tr.54]. 

Do đó, khi dạy về thiểu dục tri túcĐức Phật không có ý định thắt chặt những nguyện vọng, những nhu cầu của con ngườiSự thật, dạy thiểu dục tri túcĐức Phật chỉ nhắm đến khía cạnh tâm lý, thấy rằng về mặt tâm lýthiểu dục tri túc có tác dụng chữa khỏi những ham muốn không biết đủ, gây nên những khổ não, giày vò bất an cho con người. Lại nữa, thiểu dục tri túc còn giúp con người bình đẳng trước hạnh phúc, vì hạnh phúc hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ tâm lý con người, chứ không phụ thuộc vào vật chất nhiều hay ít. Nên Đức Phật dạy: “Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”. Cũng trong ý đó, nhà Nho Nguyễn Công Trứ đã nói: “Biết đủ là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ” [10, tr.72]. Đây là nhân tố khiến chúng sanh bất an và khổ đau.

Con đường đoạn tận khổ đau không gì ngoài phương thức sống ly dục. Ở đây, ly dục không có nghĩa là phủ nhận sự hiện diện của vật chất mà sử dụng vật chất ở vị thế của người chủ, không phải một nô lệ. Khi chúng ta là chủ, tài, sắc, danh, thực, thùy đều không cám dỗ được ta. Nên đời sống thiểu dục tri túc của một tu sĩ không những làm cho tự thân thanh tịnh giải thoát mà còn giúp xã hội ổn định an sinh.

Tuy nhiên sự thể hiện thiểu dục tri túc của Phật giáo không chỉ dừng lại trong phạm vi dục giớisắc giới và vô sắc giới mà với cả ý niệm về Niết bàn cũng vậy. Nghĩa là không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không xa lìa sanh tử, cũng không ham thích Niết bànkhông chấp trú pháp vô vikhông chấp xả pháp hữu vi mà vượt ra ngoài phạm trù nhị nguyên đối đãi. Thậm chí, ngay cả ý niệm về thiểu dục tri túc của hành giả cũng phải xả, chỉ sống với phương châm “im lặng như chánh pháp, nói năng như chánh pháp”. Cái im lặng không còn ý niệm hữu – vô, thường – đoạn, sinh – diệt, khứ – lai. Cái im lặng bởi không còn bóng dáng của tham, sân, si, chủng tử bất thiện. Chính giây phút đó mỗi hành động đi, đứng, nằm, ngồi đều chứa đựng Phật pháp, đều thể hiện tinh thần vô trụ vậy.

Tinh thần vô trước

Đức Phật dạy nguyên nhân của đau khổ là do vô minh dẫn đến tham ái và chấp thủ, mà căn bản là tham, sân, si. Càng bớt tham, sân, si thì càng an lạc hạnh phúc, hay nói cách khác, khi vắng mặt tham, sân, si sẽ tự tại giải thoátSở dĩ chúng sanh chìm đắm trong mọi phiền não và khổ đau là vì bệnh chấp ngã, chỉ cần đoạn trừ được ngã chấp thì phiền não sinh tử không còn. Đoạn trừ ngã chấp có nghĩa là không chấp trước cái ngã và ngã sở nữa. Sự xả bỏ của cảithân mạng và những cái ngã ái chấp đây là của ta, đó là xả ly ngã sở. Sự xả bỏ tâm niệm và ý niệm chấp đây là ta, đây là tự ngã của ta, đó là xả ly ngã. Cho nên, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, phàm sắc gì quá khi, hiện tạivị lai, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần cần phải được như thật quán với chánh trí: Cái này không phải là của ta, cải này không phải là ta, cải này không phải là tự ngã của ta. Phàm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì…thuộc quá khứhiện tạivị lai hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thẳng, xa hay gần cần phải được như thật quán với chánh trí: Cải này không phải là của ta, cải này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.

Này các Tỳ kheo, bậc đa văn thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham và giải thoát. Khi giải thoát biết rằng đã giải thoát. Trong sự giải thoát trí khởi lên: Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại trạng thái này” [1, tr.143-144].

Chấp ngã là chấp ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ngã. Con người chấp cả năm uẩn là ngã, hoặc chấp từng uẩn riêng làm ngã, như chấp sắc là ngã, thọ là ngã hay hành là ngã. Nhưng dù chấp cả năm uẩn hay một uẩn cũng dẫn đến phiền não khổ đau. Vì con người không hiểu rõ thân ngũ uẩn là giả tưởng của năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức tạo thành, nó không phải là một thực thế mà chỉ là sự giả hợp, nó luôn luôn thay đổi và biến hoại. Chấp năm uẩn kết hợp lại làm ngã tức chấp thân là một cá thể tồn tại độc lập, là một chủ thể có tự tính. Nhưng thật ra bản chất của nó là do năm uẩn kết hợp tạo thành, năm uẩn nương vào nhau mà tồn tại và luôn ở trạng thái sinh diệt và biến dị. Đức Phật đưa ra sự tác hại của sự chấp ngã: “Ai khởi lên ý nghĩ: “Cái gì chắc chắn là của ta, nay không còn của ta nữa. Cái gì chắc chắn của ta, chắc chắn ta không được cái ấy. Suy nghĩ như vậy, nó phiền muộn than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đưa đến bất tỉnh”. Còn những ai cho rằng: “Sau khi ta chết, sẽ thường hằng, thường tồn, thường tại mãi mãi. Khi nghe Đức Phật giảng pháp, sẽ bạt trừ được kiến xứtịnh chỉ được các hành, từ bỏ mọi sanh y, đoạn trừ khát ái”. Thời vị ấy sầu muộn… vì nghĩ rằng mình sẽ bị hoại diệt, không còn tồn tại. Cho nên mọi khổ đau khởi lên đều do chấp năm thủ uẩn này, là của ta, là ta, là tự ngã của ta. Sắc là vô thường, cái gì vô thường là có khổ” [1, tr.310].

Vậy để diệt trừ tham, sân, si chúng ta phải làm thế nào? Trong kinh Kim CangĐức Phật dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” – nghĩa là không nên trú vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không trú vào tài sảndanh lợi, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả… mà sanh tâm phân biệt chấp thủ ngã tướng. “Không trụ” ở đây không có nghĩa là nhắm mắt, bịt tai giữa cuộc đời, cũng chẳng phải rời xa hay chạy trốn cuộc đời, mà chính trong đời ác trược này, ngay tại đây, ta vẫn hít thở, vẫn sống, vẫn nhìn,… Nghĩa là, đối với năm giác quan, ta vẫn sử dụng nhưng theo thái độ khác. Nhìn chỉ là nhìn, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm mà thôi. Ở đây, không phải mắt, tai, mũi, lưỡi mất tác dụng mà chúng vẫn làm mọi việc, nhưng hoạt động dưới ánh sáng vô ngãvô trụvô nhiễm, đã thoát ra khỏi mọi hệ lụy cuộc đời. Như Đức Phật từng dạy: “Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong các nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ, tưởng sẽ chỉ là thọ, tưởng; trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Như vậy là đoạn tận khổ đau”. Được như thế, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, mọi thanh sắc có quyến rũ đến đâu thì lòng vẫn an nhiên tự tại, không sợ bất cứ điều gì nữa, khi đó có xông pha giữa cuộc đời và dạo đi khắp các xứ sở cũng không bị cuộc đời chi phối. Vì ngộ được ý nghĩa đó nên ngài Bàng Uẩn nói rằng: “Thể tự vô tâm nơi vạn vật 
Đâu sợ vạn vật thường nhiễu quanh”.

Am hiểu tinh thần này nên Quốc sư Vạn Hạnh đã đóng góp vai trò quyết định trong cuộc chuyển giao nhà Tiền Lê – lập ra nhà Lý, đứng đầu là Lý Công Uẩn, học trò của Ngài. Từ đó, mở ra triều Lý là giai đoạn thịnh thế của Phật giáo Việt Nam thời Trung đại. Làm một việc có giá trị lịch sử muôn đời như vậy, nhưng trong thị tịchThiền sư Vạn Hạnh chỉ viết:

“Nhậm vận thần suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. 
(Vận động tuỳ theo quy luật thịnh suy Xem thịnh suy chỉ như là sương mai trên đầu ngọn cỏ). 

Không còn bảo thủcố chấp về tư tưởngsở kiến, sở hành, do đó chúng ta không bị ràng buộcchi phối và phiền não khổ đau. Ngã chấp được đoạn tận đồng nghĩa với tham, sân, si không còn, chúng ta sẽ giải thoát khỏi những nỗi lo sợ và bất an. Không còn thấy tự ngã, tức là một cái ta riêng biệt với những cái ta khác, tất nhiên ta sẽ sống một đời sống hữu ích cho mình và cho người, dám hy sinh cho tất cả.

ỨNG DỤNG THIỀN TRONG NẾP SỐNG HÀNH GIẢ THỜI HIỆN ĐẠI

Tinh tấn thực hành thiền để xây dựng nếp sống minh triết

Từ lâu, Thiền tông đã được xem là suối nguồn tinh thần của người dân Việt Nam. Cuộc sống mọi người sẽ an lạchoàn thiện hơn khi tu tập theo tinh thần Phật giáo. Bởi Phật giáo khước từ những bạo độngchấm dứt nguyên nhân dẫn đến khổ đau, chỉ rõ cho con người biết đâu là con đường đưa đến xấu xatội lỗi, đâu là con đường đến với đời sống cao thượng. Thực tập thiền là thực tập khả năng thương yêubao dung và tha thứ; biết ôm ấp và chia sẻ những khó khăn của người mình thương, để tạo ra chất liệu hiểu biết và thương yêuan lạc và hạnh phúc trong đời sống hằng ngày. Khi trong tâm thật sự có an lạc và hạnh phúc do tu tập đem lại, chúng ta sẽ không thể nào đi tìm kiếm những ảo tưởng bên ngoài. 

Xã hội bình an và hạnh phúc khi nào con người biết dừng lại và chuyển hóa những yếu tố tiêu cực đang hiện hữu trong tự thân, để xây dựng nếp sống cao đẹp, để có chất liệu của con người và bảo vệ tình người, tình đồng loạiVì vậythế giới ngày nay đang kêu gọi con người phải hiểu nhau, thương nhau, cùng nhau tạo dựng một xã hội bình an và hạnh phúc dựa trên nguyên tắc hòa bình, không tranh cãi. Do đó, thực tập thiền với nếp sống hiểu biết và thương yêu là rất cần thiết. Đừng nghĩ rằng thực tập thiền là thực tập cho Phật giáoChúng ta thực tập thiền để có an lạc và hạnh phúc trước, sau đó đem nguồn năng lượng tích cực đó đến với người khác; tự độ – độ tha lưỡng lợi.

Kiến tạo nếp sống tỉnh thức

Như trong căn phòng được thắp sáng bởi một ngọn nến lung linh, bóng tối sẽ tan biến và chúng ta nhìn thấy rõ từng vật dụng trong đó. Cũng vậy, khi chánh niệm tỉnh giác được thắp lên, mọi vọng tưởng sẽ biến mất, chúng ta sẽ ý thức tất cả những ý niệm như chúng đang là. Chúng ta sẽ biết mình đang làm gì, nói gì, nghĩ gì. Ba nghiệp thường xuyên được kiểm soát như vậy, chúng ta sẽ nhanh chóng có niềm an lạc hạnh phúc trong hiện tạiNếp sống chánh niệm tỉnh thức như Đức Phật dạy: “Đừng tìm về quá khứ/ Đừng tưởng tới tương lai/ Quá khứ đã không còn/ Tương lai thì chưa tới/ Hãy quán chiếu sự sống/ Trong giờ phút hiện tại/ Kẻ thức giả an trú/ Vững chãi và thảnh thơi” [1, tr.442].

Thật vậy, nếu như một người tập thiền đợi đến giờ nhất định mới đi vào tọa thiền để có được sự chánh niệm tỉnh giác thì người hành thiền ấy chưa phải là người thực tập thiền giỏi. Một người hành thiền giỏi là người biết ứng dụng thiền đi vào đời sống có hiệu quả nhưng không đánh mất đi sự chánh niệm tỉnh giác của mình. Như ở trong thiền đường, ngồi im lặng và theo dõi từng hơi thở để cho thân và tâm tĩnh lặng, tự chủ và an lạc thì chúng ta cũng phải biết áp dụng thiền như thế nào đó để cho ta ở trong thiền đường hay trong một môi trường khác thì tâm vẫn được an lạc

Lại nữa, việc hành trì thiền định liên tục trong đời sống sẽ tạo sự chuyển hóa nội tâm, bước vào sự quân bình thân tâm để triệt tiêu những tác nhân gây rối loạn tâm lý thường xuyên quấy nhiễukích thích các dục hoạt động trong đời sống hằng ngày. Thật ra các dục ở đời sống được thể hiện bởi lòng tham muốn, khát khao thỏa mãn tâm ý con người. Chúng chỉ là kết quả của sự khổ đau đè nặng lên thân phận kiếp người, đúng như lời Phật dạy: “Từ tham dục nảy mầm khổ đau /Từ tham dục nảy mầm sợ hãi/ Với ai thoát khỏi vòng tham dục/ Không còn khổ đau, và sợ hãi” (Pháp Cú 214).

Thiền định là con đường trở về thực tạithường xuyên chánh niệm tỉnh giác trong mọi nẻo đường của ý tưởnghành vi. Khi tâm đã làm chủ các pháp, những trạng thái biến chuyển tâm lý bị ức chế bởi sầu, bi, khổ, ưu, não, thất vọnglo lắngsợ hãi trong tâm hồn được thanh lọc, tẩy rửa để rồi tự phá hủy mọi gông cùm của thực tại, được đúc kết từ sự tham dục từ vô thỉ của con người. Chính sự duy trì chánh niệm tỉnh giác giúp chúng ta vượt ra khỏi sự hỗn loạn đang chế ngự trong cõi lòng của mỗi người. Thực tại là cuộc sống đang là, một sự thanh thản tâm hồn trong chánh niệm tỉnh giác. Tại đây sự quân bình thân tâm trở về với chính mình trong từng giây phút: “Thở vào tâm tĩnh lặng/ Thở ra miệng mỉm cười/ An trú trong hiện tại/ Giây phút đẹp tuyệt vời” [7, tr.19].

Chánh niệm tỉnh giác thường xuyên có mặt thì tâm thức được lắng đọng. Đây là phương cách để tẩy sạch các hạt giống chất chứa sự ô nhiễm, nhằm đạt đến sự tĩnh lặng an lạc và giải thoát. Tất nhiên, một tâm thức trong sáng như thế sẽ vận hành theo một chiều hướng mới, tạo ra một loạt hoạt độnglời nói và ý nghĩ tốt lành. Khi bước vào đời sống nội tâmchúng ta cần có sự bình an nội tại để quan sátthẩm thấu chân lý cả. Nên cần có nếp sống hành thiền thường xuyên mới có thể chuyển hóa các hạt giống phiền não đang còn tồn đọng trong tâm thức. Giống như một tấm gương trong suốt phản chiếu mọi đối tượng khi được soi rọi vào mà không hề dính mắc một chút mảy may bụi trần. Cũng vậy, hành giả phải thường xuyên quan sát sự vận hành của tâm trong chiều hướng thanh tịnh, để viễn ly và trừ bỏ mọi tác nhân gây nhiễu loạn trong tâm thức, từ đó tâm thức mới được khai phóng và thoát ra khỏi lớp sương mù ảo giác giữa cái ngã và chân lý. Trong kinh Giáo giới La Hầu LaĐức Phật đã dạy La Hầu La phải phản tỉnh và phản tỉnh nhiều lần nhằm điều chỉnh tâm thức trước khi làm, đang làm và sau khi làm để tâm thức khỏi phải lo âu sợ hãi. Đây chính là phương pháp tịnh hóa ba nghiệp mà dù ta ở đâu và làm việc gì, lúc nào cũng có thể thực hiện được.

Đi vào thiền định là đi vào con đường nhận rõ và không chấp thủ các vọng niệm của tâm thức và tại đó cái ngã không còn cơ hội để len lỏi khắp nơi. Như La Hầu La, sau khi phản tỉnh nhiều lần về ba nghiệp trước khi làm, đang làm và sau khi làm thì mọi hạt giống bất thiện đã bung vỡ không còn mầm mống để đâm chồi nữa. Cũng thế, với tâm tĩnh lặng tỉnh giác, bạn sẽ có sự cân bằng nội tại, một trạng thái tâm lý thoải mái và hoàn toàn tự do.

KẾT LUẬN

Những nan giải và phức tạp trong cuộc sống thường nhật sẽ được giải quyết triệt để, nếu như con người biết thực tập đời sống thực hành thiền định. Tất nhiên, hành giả phải biết điều chỉnh tâm thức như thế nào để tâm được tĩnh lặng và tự chủĐồng thờisử dụng chánh tinh tấn để duy trì sự miên mật. Có như thế, chúng ta mới bước ra ngoài vùng tâm lý rối loạn bởi những định kiến sai lầm và những tác nhân bên ngoài thường xuyên kích động, quấy nhiễu tâm thức. Chính nhờ sự thực tập làm cho tâm thức tỉnh lặng mọi lúc, mọi nơi một cách đều đặn đã làm lắng đọng và tẩy rửa mọi vết nhơ, tạo nên sự bình lặng trong tâm thứcThiền định là chìa khóa có thể làm hóa giải những bức xúc trong tâm và bên ngoài đời thường. Rõ ràngthiền định đã đưa nếp sống văn hóa ứng xử lên đỉnh cao nhất trong các mối quan hệ giữa con người với con người và các mối quan hệ cộng hưởng xung quanh. Với nếp sống chánh tỉnh giác như vậy, tất nhiên hạnh phúc sẽ có mặt mà bất cứ ai đi vào con đường này cũng đều được lãnh hộiPhật giáo xây dựng hạnh phúc bằng tất cả niềm tin nhận chân sự thật khổ đau và đoạn tận khổ đau. Nếp sống thiền định là nếp sống có giá trị thiết thực hiện tại, đến để mà thấy. Cốt lõi của một đời sống hạnh phúc có ngay trong đời sống bình nhật, khi một tâm thức có nhân cách hoàn mỹtâm hồn trang trải lòng từ đối với mọi loài và được soi sáng bằng trí tuệ vô biên.

  

Chú thích và tài liệu tham khảo:

1. Thích Minh Châu dịch (1992), Trung bộ kinh I, III, Viện Nghiên cứu Phật học TP. HCM ấn hành.

2. Thích Minh Châu dịch (1999), Tiểu Bộ Kinh I, Đại Tạng Kinh Việt Nam.

3. Đoàn Trung Còn dịch (1950), Tứ thư Mạnh Tử, quyển Thượng Hạ, Nxb. Trí Đức.

4. Cao Hữu Đính (1996), Phật và Thánh chúng, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

5. Thích Thanh Từ (1971), Sử 33 vị Tổ Thiền tông Ấn Hoa, Tu viện Chơn Không ấn hành.

6. Thích Thanh Từ (1992), Kinh Pháp Bảo Đàn, Thiền viện Thường Chiếu xuất bản.

7. Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1987), Kinh quán niệm hơi thở, Nxb. Lá Bối.

8. Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1999), Thiền môn nhật tụng, Nxb. Lá Bối.

9. Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1999), Bước tới thảnh thơi, Nxb. Lá Bối.

10. Thích Viên Giác (1997), Kinh Di Giáo lược giải, Nxb. TP. HCM.

11. Thích Thanh Kiểm (1991), Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, Nxb. TP. HCM.

12. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận I & III, Nxb. Văn học.

13. Trần Tuấn Mẫn (1995), Vô Môn quan, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành

14. D.T. Suzuki (Trúc Thiên – Tuệ Sỹ dịch) (1998), Thiền luận, Nxb. TP. HCM.

15. Kamura Taiken (1959), Đại thừa tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch, Tu thư ĐHVH.

16. Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. TP. HCM.

17. Thích Chơn Thiện (1997), Phật học khái luận, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

18. Thích Chơn Thiện (1997), Tìm vào thực tại, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

19. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb. Văn hóa – Thông tin.

(Trích từ: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo 394)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1953)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2068)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2256)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2528)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2559)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2093)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2545)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1883)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1983)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2264)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2789)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1709)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1617)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1812)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1645)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2221)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2389)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2092)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1878)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1792)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1973)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1710)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2705)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1859)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2190)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2154)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2499)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1816)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2002)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1870)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2046)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2620)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3689)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2295)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2294)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1679)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1988)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2319)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2323)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2162)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3126)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2144)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2538)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2053)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1983)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2193)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2495)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2059)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2455)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2423)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant