Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

HT Thích Đức Thắng: Tam tam-muội

03 Tháng Tư 202311:44(Xem: 1998)
HT Thích Đức Thắng: Tam tam-muội
HT Thích Đức Thắng: Tam tam-muội

Duc-Phat-780x470


Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ. Ba định này còn gọi là Tam ma-địa, tam tam Đẳng trì; đối với quán lý thì gọi là tam không, đối với ý nghĩa đoạn trừ chướng ngại thì gọi là tam trị. Tam tam-muội (trayaḥ samādhayaḥ), Tam ma-địa, tam tam đẳng, hay Tam tam định, là chỉ cho ba định, ba chánh định, đó là: Không môn (śūnyatā), tức là lúc hành giả vào định, quán tất cả các pháp đều không, không có ngã cùng ngã sở, các hành đều vô thường, không chân thật. Vô tướng môn (animitta), còn gọi là vô tưởng, vì nhờ quán nhân không nên hành giả không khởi lên ý niệm chấp thủ vào tướng các pháp. Vô nguyện môn (apraṇihita), còn gọi là vô tác, vô dục, vì nhờ quán vô tướng đối với các pháp nên đối với sự tương tục sinh tử đời vị lai không khởi lên mong cầu ái nhiễm nữa.

Ở đây, samādhyaḥ, cựu dịch là tam-muội, là định, còn tân dịch là tam-ma-địa, là đẳng trì; nhưng trayaḥ samādhyaḥ, tức là tam tam-muội được gọi là ba định này chúng câu hữu chung cho cả hữu lậuvô lậu, nên còn gọi là tam giải thoát môn (ba cửa giải thoát), vì ba cửa giải thoát này là con đường đưa đến Niết-bàn, cho nên gọi là ba cửa giải thoát.

Nếu chúng ta đem ba cửa giải thoát này làm nguyên lý thực tiễn chính là ba phương pháp quán khi hành giả đi vào Thiền định; ba cửa giải thoát này tuy chúng câu hữu với giải thoát đối với pháp vô lậu, nhưng chúng cũng là nguyên lý thực tiễn chung cho các hành giả Tiểu thừa lẫn Đại thừa trong việc thực hành giải thoát khổ đau đưa đến Niết-bàn an vui tịch diệt, vì tự thân của ba định giải thoát này tuy dành cho các pháp vô lậu là chính, trên mặt tuyệt đối, nhưng trên mặt tương đối chúng vẫn được dành cho các bậc học pháp hữu lậu cả thế gianxuất thế gian, cho nên trong Câu-xá luận 28 (Đ. 29, tr. 149c) viết: “Ba pháp này, mỗi pháp có hai loại, đó là tịnh và vô lậu. Vì định của thế gianxuất thế gian khác biệt nên thế gian dành chung cho mười một địa, còn xuất thế gian chỉ dành chung cho chín địa (trong mười ba trụ địa, hay còn gọi là mười ba hành vị từ nhân đến quả của Bồ-tát). Ở đây vô lậu gọi là tam giải thoát môn, khế hợp với cửa vào Niết-bàn.” Và cũng cùng nghĩa này, theo Hiển Dương Thánh Giáo luận 2 (Đ. 31, tr.490b): “Nên biết, nếu theo nghĩa vô sai biệt thì gọi chung là không, vô tướng, vô nguyện. Ba cửa này thông với Văn-Tư-Tu nơi sinh ra trí tuệ thế gianxuất thế gian. Nếu gọi không, vô tướng, vô nguyện định thì chỉ có Tu mới sinh ra trí tuệ thế gianxuất thế gian.” Chính vì sự câu hữu của Ba định này chúng vừa câu hữu với pháp hữu lậu, vừa câu hữu với pháp vô lậu, nên đối với ba định này theo kinh luận đã có nhiều thuyết khác nhau.

Theo kinh Tăng nhất A-hàm 16, “Đối với Không tam-muội thì nhơn và pháp của vạn hữu, hành giả đều quán là không. Ở trong pháp quán mười sáu hành tướng của Tứ đế thì định này cùng với hai hành tướng không và vô ngã của khổ đế tương ưng với nó; tức là chúng ta quán ngã kiến cùng sở kiến của ngã đều không. Đối với Vô tướng tam-muội thì, vì chúng ta đã quán ngã-pháp đều không, nên tướng trạng của chúng không sai khác, chúng cùng với bốn hành tướng diệt, tịnh, diệu, ly của diệt đế tương ưng với định. Vì Niết-bàn lìa năm trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, hai tướng nam, nữ, cùng với ba tướng hữu vi sinh, dị, diệt cộng lại là mười tướng nên đều gọi là vô tướng; định này vì duyên vào diệt nên có tên gọi là vô tướng. Đối với vô nguyện tam-muội hay còn gọi là vô tác tam-muội, vô khởi tam-muội thì vì chúng ta đã quán tướng trạng của các pháp là không sai khác, nên chúng ta không có những điều gì mong cầu về nó, nên mới cùng với hai hành tướng khổ và vô thường của khổ đế; bốn hành tướng nhân, tập, sinh, duyên của tập đế; bốn hành tướng đạo, như, hành, xuất của đạo đế là mười hành tướng tương ưng với định. Khổ, vô thường cùng với bốn hành tướng của tập đế đều đáng nhờm tởm, lo sợ cho nên chúng ta không mong cầu giữ chúng, ngay đến đạo đế như chiếc thuyền mà cũng nên từ bỏ; định này chỉ là duyên nên nó được gọi là vô nguyện. Hơn nữa các pháp không có gì để cầu mong vui sướng, thì không có gì để tạo tác, nên gọi là vô tác hoặc gọi là vô khởi.”

Và Thành Thật luận 13 trong phẩm Tam tam-muội (Đ. 32, tr. 335b) lại giải thích: “Nếu hành giả không thấy chúng sanh, cũng không thấy pháp, đó gọi là không. Trong không như vậy không có tướng để giữ, không này tức là vô tướng. Và trong không, không chỗ để nguyện cầu, không này tức là vô nguyện. Vì vậy cho nên ba cái này cùng một nghĩa. Hỏi: “Nếu vậy, tại sao nói là ba?” Đáp: “Vì không này có khả năng, nên phải tu không, vì tu không được lợi nên không thấy tướng, vì không thấy tướng nên vô tướng, vì vô tướng nên chẳng nguyện, vì chẳng nguyện nên chẳng thọ thân, vì chẳng thọ thân nên thoát tất cả khổ, những lợi như vậy đều do từ tu không mà có được, cho nên nói là ba.” Và chỗ khác cũng trong luận Thành Thật 12, phẩm Tam tam-muội thì ba định này được chia ra cách tu như sau: (1) Nhất phần tu định, tu định không tu tuệ, hoặc tu tuệ không tu định. (2) Cộng phần tu định, vừa tu định, vừa tu tuệ, là chỉ cho định thế gian, ở trong phá noãn vị (là một trong bốn vị của Gia hành vị trong năm vị của Tiểu cũng như Đại thừa). (3) Thánh chánh định, khi nhập vào pháp vị thì có khả năng chứng định Diệt đế. Hành giả dùng định tu hàng phục tâm, nhờ tuệ để ngăn chận phiền não; dùng định để hàng phục tâm, nhờ định để ngăn chận phiền não; và nhờ định tuệ để hàng phục tâm, nhân tánh được giải thoát, tánh ở đây tức là đoạn tánh, ly tánh, diệt tánh. Hơn nữa, lúc này cùng lúc đầy đủ định tuệ nên gọi là Thánh chánh.

Trong khi đó cũng theo một số kinh luận Tiểu thừaĐại thừa thì chủ trương lại khác. Theo Trung A-hàm 17, luận Câu-xá 28 cùng kinh Đại phẩm Bát-nhã I thì ba định này chỉ cho: (1) Hữu tầm, hữu tứ tam-ma-địa, là cùng với tầm và tứ tương ưng với định, vì định này là nơi nhiếp của vị đáo định cùng sơ thiền của sắc giới. (2) Vô tầm, hữu tứ tam-ma-địa, chỉ cùng với tứ tương ưng với định mà thôi, vì định này là nơi nhiếp trung gian của tịnh lự. (3) Vô tầm, vô tứ tam-ma-địa, vì định này là nơi nhiếp từ đệ nhị tịnh lự trở lên cho đến phi tưởng phi phi tưởng nên không tương ưng với tầm và tứ. Ở đây, tâm thô gọi là tầm, tâm tế gọi là tứ. Hữu tầm, hữu tứ là theo cách dịch của các nhà tân dịch, còn các nhà cựu dịch thì dịch là hữu giác, hữu quán tam-muội, vô giác hữu quán tam-muội, vô giác vô quán tam-muội. Theo phần trên Pháp giới thứ đệ quyển trung (Đ. 46, 679b) thì, (1) Hữu giác hữu quán tam- muội, nếu dùng tâm tương ưng với không, vô tướng, vô tác mà nhập vào các định, vì trong lúc quán sơ thiền cùng phương tiện thì tất cả giác quán đều câu hữu với thiền nên tất cả đều chánh trực, cho nên gọi là hữu giác hữu quán tam-muội. (2) Vô giác hữu quán tam-muội, nếu dùng tâm tương ưng với không, vô tướng, vô tác mà nhập vào các định, vì quán thiền trung gian thì tất cả không có giác mà có quán câu hữu với thiền, tất cả đều chánh trực, cho nên gọi là vô giác hữu quán tam-muội. (3) Vô giác vô quán tam-muội, nếu dùng tâm tương ưng với không, vô tướng, vô tác mà vào các định, vì trong lúc quán vô giác vô quán câu hữu với thiền, thì từ nhị thiền cho đến diệt thọ tưởng định tất cả các thiền, vì quán vô giác vô quán đều là chánh trực, nên gọi là vô giác vô quán tam-muội.

Và theo Pháp Hoa Huyền nghĩa IV thượng thì ba định này có tên gọi lại khác nữa, có lẽ đây cũng là một cách để tiếp cận căn cơ thuộc tính của hành giả mà đức Đạo sư dùng một tên khác để gọi tên, đây là giáo lý theo chủ trương của các nhà Viên giáo, nhất tâm quán ba đế viên dung, ba hoặc đồng thời được đoạn tận: (1) Chân đế tam-muội, đạt được quán lý không chân đế, nhờ phá kiến, tư hoặcthành tựu. (2) Tục đế tam-muội, đạt được định quán nghĩa tục đế giả, nhờ phá trần sa hoặcthành tựu. (3) Trung đạo vương tam-muội, ngăn chận hai biên không và giả, mà đạt được định quán lý trung đạo, nhờ phá vô minh hoặcthành tựu.

Trong sự sắp xếp ba định này theo thứ tự của chúng cũng không thống nhất: Hoặc theo thứ tự không, vô tướng, vô nguyện, hoặc không, vô nguyện, vô tướng. Theo Đại thừa nghĩa chương 2 thì tùy thuộc vào ý nghĩaphân biệt trước sau không giống nhau có ba cách sắp xếp theo thứ tự như sau: (1) căn cứ vào sự tu nhập mà có thứ tự: Trước tiên nói đến vô nguyện khiến cho hành giả nhờm tởm sinh tử, kế đến nói vô tướng khiến cho hành giả cầu mong Niết-bàn, cuối cùng nói đến không môn khiến cho hành giả khế chứng vào chúng. (2) Y cứ vào sự thành tựu chung cuộc theo thứ tự gốc ngọn: Không là gốc của các đức, Bồ-tát trước phải quán nó, nên trước phải rõ không; do thấy được không, nên không thấy sinh tử để tham cầu cho nên nói vô nguyện; vì do chứng được nghĩa không, không thấy sinh tử, nên liền cùng với Niết- bàn vô tướng tương ưng, cho nên lần thứ ba tuyên nói vô tướng. (3) Y cứ vào thể tướng dụng của chỗ không mà là rõ thứ tự của chúng: Trước hết nói không môn, không thể của các pháp; kế đến nói vô tướng, không là tướng của các pháp; nói về vô tác, không là dụng của các pháp.

Ngoài những kinh luận Tiểu-Đại thừa thuộc hiển giáo chúng tôi đã trích dẫn ra còn có ba định theo quan điểm của các nhà Mật giáo được kiến lập dựa vào ý nghĩa thâm sâu mà thiết trí Mạn-trà-la để biểu trưng đức lý mà nói thì, hoặc dùng không, vô tướng để ngăn ngừa tình, vô nguyện để lộ cái đức lý. Nếu tất cả theo nghĩa đức mà nói thì, không là nghĩa của tất cả các pháp vô ngại để bước vào, vô tướng là nghĩa muôn đức tròn đầy vô tận, vô nguyện là đức của hai bộ mạn trà-la đầy đủ xưa nay của hành giả, nên gọi là vô sở nguyện cầu.

Qua những trích dẫn từ kinh luận Đại Tiểu thừa cho hành giả chúng ta nhận thức rằng ba định (tam tam-muội) về mặt hữu lậu tương đối thì chúng lệ thuộccâu hữu vào lý nhân quả được gọi là tam tam-muội; nhưng đứng về mặt vô lậu tuyệt đối thì chúng lệ thuộccâu hữu với duyên khởi được gọi là tam giải thoát môn, đó là ba định tùy thuộc vào đặc tính của căn cơ của hành giảnhận thứcthực hành. Và cũng tùy những pháp tùy duyên thuộc tính của từng đối tượng tu tập mà theo đó ba định cũng xứng hợp với chức năng để đối trị bệnh khổ phiền não của chúng sanh trong quán pháp của minh để đưa đến giải thoát hoàn toàn. Vì vậy vấn đề sắp xếp theo thứ tự trước sau cũng tùy thuộc vào căn cơnhận thức của hành giả mà có sự sắp xếp trước sau của ba quán pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện hay ngược lại cùng những tên gọi khác nhau nhưng cũng cùng đưa đến kết quả như nhau như các kinh luận đức Đạo sư đã dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1469)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1252)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1378)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1335)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1371)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1337)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1296)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1506)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1586)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1627)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1515)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1474)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1250)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1398)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1371)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1451)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1482)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1559)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1408)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1532)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1427)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1381)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1452)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1387)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1557)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1826)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1513)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1816)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1408)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1331)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1549)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1396)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1483)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1629)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1831)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1860)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1675)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1868)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1558)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1513)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2045)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1629)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1565)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1504)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1490)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1571)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1430)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1725)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant