Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về ?

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 25313)
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về ?

Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn:

 Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn

 Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về


Quán trọ là nơi tạm dung của người xa xứ. Hầu hết chúng ta là những người đang sống lưu vong và các quốc gia định cư, trong ý nghĩa nào đó cũng mang tính chất của một quán trọ bên đường. Tâm cảm nầy không phải duy nhất cho người Việt nam mà hầu hết di dân, nhất là người tị nạn khắp nơi trên thế giới đều chia sẻ trạng thái tâm lý nầy. Enrico Marsias, ca sĩ Pháp gốc Hi Lạp, đã mô tả tâm trạng nầy thật tuyệt vời qua bài hát Adieu Mon Pays:

J’ai quitté mon pays

J’ai quitté ma maison

Ma vie, ma triste vie

Se traine sans raison.

 

Thế nhưng tại sao quán trọ lại ngăn nẻo về? Và bao giờ thì quán trọ hay nhà có thể trở thành tổ ấm Home, Sweet Home?

 

Khác với các cộng đồng di dân, người Việt hải ngoại là cộng đồng tị nạn, tương tự như các cộng đồng Đông Âu trước khi chế độ Liên Sô sụp đổ. Sau 30 năm định cư, phần đông người Việt đã ổn định đời sống vật chất với nhà cao cửa rộng, nhưng tổ ấm theo nghĩa văn hóa tình cảm Home, Sweet Home của thi sĩ Mỹ John Howard Payne (1791- 1852) rất phổ cập trong thời kỳ Chiến Tranh Nam Bắc Hoa Kỳ, thì mức độ thành công của chúng ta như thế nào? 


Tại các quốc gia di dân như Hoa Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi và New Zealand, nhận định qui ước là di dân hưởng được tinh túy của hai nền văn hóa - của đất nước cội nguồn mà họ mang theo và của quốc gia định cư mà họ tiếp cận. Qui luật nào cũng có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung, tôi không nghĩ rằng nhận định nầy phản ánh đúng với thực tế của phần đông gia đình di dân và người tị nạn, cá biệtgia đình người Việt nam

Theo nhận xét của tôi qua kinh nghiệm làm việc tại Bộ Di Trú và Văn Hóa Đa Nguyên liên bang trước kia và Hệ Thống Phát Thanh quốc gia SBS Radio hiện nay, Về Nguồn theo nghĩa duy trì truyền thống văn hóa là một khuynh hướng tự nhiên của tập thể người sinh đẻ ở nước ngoài. Về nguồn không nhất thiết chỉ đơn thuần là những chuyến đi thăm viếng du lịch quê xưa mà là hành-trình-tình-cảm-tri-thức-tái-kết với nền văn hóa cũ. Với thế hệ thứ nhất, người Việt sống trong hoài niệmnỗ lực tái tạo hình ảnh văn hóa cũ trong môi trường mới. Nơi nào có người Việt là nơi đó có Hội Chợ Tết; nơi nào có Phật tử là nơi đó có Chùa Việt namLễ Vu Lan Báo Hiếu. Trên bình diện cá nhân, người Việt nào càng có nhiều phương tiện vật chất là tư gia của họ càng có nhiều sắc thái Việt nam về mặt biểu tượng bên ngoài cho đến những trang trí bên trong như bàn thờ ông bà, gia tiên, những bức họa sơn dầu, bức tranh sơn mài trên tường và bàn ghế phòng khách.


Tiến sĩ Mandy Thomas, một nhà nhân chủng học Úc, đã nghiên cứu nhiều năm về cộng đồng Việt nam. Tôi cần nói là không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với kết luận của tác giả, nhưng tôi chia sẻ nhận định sau đây:


“Người Việt nam [tại Úc] liên tục đối diện với vấn đề biểu dương cộng đồng với nền văn hóa đa số chính mạch (the majority culture) và làm thế nào kết hợp với kẻ khác trong ‘cộng đồng lý tưởng mơ ước’ của họ (‘their imagined community’). Qua hội chợ Tết và những lễ hội nghi thức khác, các tổ chức cộng đồng hành xử như là người thương thuyết chính giữa cộng đồng và cơ cấu chính quyền địa phương. Những tổ chức cộng đồng nầy hướng dẫn sinh hoạt văn hóa và chính trị của cộng đồng và do đó có tác động sâu rộng trong việc hình thành liên tục của bản sắc Việt nam (Vietnamese identities) (1).

Đó là về mặt tập thể. Còn về mặt cá nhân, qua nhiều cuộc tiếp xúc với người Việt định cư tại vùng Tây Sydney, Mandy Thomas nhận xét rằng đời sống quá khứ tại Việt nam của họ phản ánh sự chọn lựa nhà cửa tại Úc và nhà như là một ý niệm cũng như là vật thể trong đời sống gia đình và môi trường địa phương, là mối quan tâm chủ yếu của người Việt.


Đối với người Úc gốc Việt, nhà là một ý niệm gắn liền với quê nhà (homeland), ngôn ngữxã hội – tất cả đều phản ánh khúc xạ qua kinh nghiệm mất mát [trong quá khứ]....Đời sống được chuyển đổi từ Việt nam và sự mất mát khung trời văn hóa Việt đã khiến người Việt tái lập đời sống văn hóa Việt trong không gian Úc châu - (1)


Tôi chưa tìm thấy một khảo sát nào về mức độ hài lòng của người Việt trên căn bản tổ ấm-sweet home, sau khi đã tạo dựng được nhà cửa tại Úc hay tại Bắc Mỹ. Ngoại trừ thành phần ông bà định cư theo diện đoàn tụ gia đình (2)thành phần cha mẹ đoàn tụ với con cái sau khi con cái đã ổn định đời sống kinh tế, theo nhận xét của tôi, đa số người Việt định cư với tư cách tị nạn và lập nghiệp trở lại với hai bàn tay trắng, đều có cảm tưởng là họ đã tạo dựng được phần nào tổ ấm tại quê hương thứ hai.


Tôi nói "phần nào" là vì theo ý tôi, chúng ta không bao giờ có thể tái tạo hoàn toàn đời sống văn hóachúng ta đã mất hoặc đời sống văn hóa đương đại mà chúng ta không còn là thành phần tham dự. Vả lại, tổ ấm còn đòi hỏi một mức độ hội nhập nào đó vào môi trường chính mạch mà nhiều người thuộc thế hệ thứ nhất có thể còn gặp trở ngại tại các quốc gia định cư.

Sau những năm đầu định cư, người Việt được coi là thành công trong một cuộc thăm dò của Phân Khoa Xã Hội Học thuộc Viện Đại Học NSW, trên căn bản một định nghĩa tương đối về thành công như là sự hài lòng với chính mình. Theo định nghĩa nầy, thành phần ông bà cha mẹ đoàn tụ gia đình sau khi con cháu đã ổn định đời sống tị nạn về mặt kinh tế tài chánh, thường gặp nhiều khó khăn và không cảm thấy thoải mái với đời sống mới, vì tương quan chủ lực trong gia đình đã thay đổi và thứ bậc tình cảm theo truyền thống không còn được chấp nhận hoàn toàn như tại Việt nam trước kia.


Cũng thay đổi là vai trò của phụ nữ trong xã hội mới mà tôi gọi là giữa hai dòng văn hóa và Mandy Thomas coi là trong tình trạng in limbo (1). Theo ý tôi, truyền thống văn hóa mà người Việt nỗ lực tái tạo cho tổ ấm-sweet home phải là truyền thống tốt, thích hợp với nguyên tắc nam nữ bình quyềnbình đẳng cơ hội (3). Vào mốc điểm 15 năm định cư ấy, tôi đã có nhận xét rằng “phụ nữ Việt nam ở nước ngoài có nhiều khả năng linh động và hội nhập thành công trong môi trường [bình đẳng] xã hội mới mà không bị vong bản"(3).

Sở dĩ tình trạng bạo hành còn xảy ra trong một số gia đình Việt nam hiện nay là do nguyên tắc bình đẳng nầy không được tôn trọng.


Điểm đáng chú ý là trong cộng đồng Việt nam hải ngoại, còn một thành phần đặc biệt có khả năng bắc cầu giữa hai thế hệ – do dó tạo điều kiện cho thế hệ thứ hai về nguồnthế hệ thứ nhất hội nhập, đó là thế hệ chuyển tiếp – thế hệ một rưỡi – sinh đẻ tại Việt namtrưởng thành tại những quốc gia định cư của cha mẹ.


“Tuy kinh nghiệm định cư của người Việt ở nước ngoài không thể nói là độc nhất vô nhị, thế nhưng tiến trình định cư nầy cũng không giống như tiến trình định cư mà nhiều cộng đồng khác đã trải qua – chẳng hạn như cộng đồng Hi Lạp hoặc Italy. Trong một cách thế nào đó, cộng đồng Việt nam có thể nói là gần gu~i với cộng đồng Cuba tại Mỹ hơn là cộng đồng Trung Hoa tại Úc, bởi vì cộng đồng Việt nam và Cuba là cộng đồng tị nạn, chia sẻ cùng khát vọng tự do dân chủ cho đất nước cội nguồn. Đây là một yếu tố quan trọng trong mối dây liên hệ giữa ba thế hệ trong cộng đồng người Việt.

Thế hệ Một Rưỡi đã trải qua phần nào những năm tháng tạo dựng nhân cách ở Việt nam nên họ có khuynh hướng tìm hiểu chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩkinh nghiệm đau thương của thế hệ đi trước...Ngược lại, thế hệ một rưỡi lại gần gũi với thế hệ thứ hai hơn là thế hệ thứ nhất có thể làm được. Trong đời sống con người bao giờ cũng có sự cách biệt giữa hai thế hệ nầy, bất kể là họ thuộc nguồn gốc văn hóangôn ngữ nào, kể cả cộng đồng chính mạch....Thế hệ thứ nhất đã "mất" một quê hương, nhưng chưa hẳn đã tìm được một quê hương mới, trong khi thế hệ thứ hai sinh đẻ ở nước ngoài và chỉ biết môi trường thổ sinh, hoặc ít nhấtthế hệ thứ hai không có những gắn bó tha thiết với đất nước cội nguồn của cha mẹ. Họ không có cảm giác đã "mất" một quê hương và không có nhu cầu tìm một quê hương mới. Thế hệ một rưỡi là thế hệ vừa "mất" một quê hương vừa tìm được một quê hương mới.” (4). 


Ông Jack Passaris, chủ tịch Hội Đồng Sắc Tộc NSW Ethnic Communities Council, thường tự hào nói với tôi rằng con gái của ông thuộc thế hệ thứ tư sinh đẻ bên ngoài lãnh thổ Hi Lạp, nhưng cô ấy vẫn có đủ vốn liếng văn hóangôn ngữ để theo học đại học tại Athens. Đây có thể là trường hợp ngoại lệ, nhưng tôi không nghĩ như vậy, vì tôi biết khá nhiều về cộng đồng Hi Lạp tại Úc. Cũøng như cộng đồng gốc Do Thái về phương diện tôn giáo, nhưng khác với cộng đồng Do Thái về mặt ngôn ngữ, người Úc gốc Hi Lạp và có lẽ người Mỹ gốc Hi Lạp cũng vậy, rất thành công trong việc duy trì tín ngưỡng, ngôn ngữ, và văn hóa của họ mà vẫn hội nhập thành công vào xã hội chính mạch tại các nước định cư.


Đến năm 2035, tức là sau 60 năm định cư, thế hệ thứ ba và thứ tư của chúng ta có còn khả năng nói tiếng Việt và hiểu văn hóa Việt hay không? Tôi không lạc quan lắm, trừ phi thế hệ thứ hai trong cộng đồng hiện nay tích cực về nguồn như là thành tố chia sẻû đặc tính văn hóa của home, sweet home. Trong mỗi gia đình, chúng ta đều có những trăn trở như nhau về việc nầy. nhưng không phải ai cũng thành công trong nỗ lực tìm một công thức dung hòa nhu cầu hội nhập dòng chính với nhu cầu duy trì ngôn ngữvăn hóa Việt nam. Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang đã đề tặng tác phẩm mới nhất của mình cho các con sinh đẻ tại Mỹ là “thế hệ bảûo tồn Tiếng Việt Huyền Diệu nơi xứ người” (5). Thế hệ thứ hai tự họ cũng trải qua những trăn trở như vậy nên chủ đề của trại hè sinh viên Việt nam ở Adelaide, South Australia, đầu năm 2005 là “Ta Là Ai? Who Are We?” 


Nhiều công trình khảo cứu đã và đang đi tìm câu trả lời. Vicky Karaminas viết:” Nhà (home) là nơi chúng ta nhớ khi chúng ta đi xa và là nơi chúng ta trở lại sau cuộc hành trình. Nhưng đối với nhiều người, cuộc hành trình, tình trạng ngược xuôi không bao giờ chấm dứt. Nhà được liên tục tìm kiếm qua những lúc đến và lúc đi, lúc ra và lúc vào những địa điểm khác nhau – Home is what we yearn for when we are away, and what we return to after a journey. But for many, the journey, the displacement never ends: the search for home is a contant flux of arrivals and departures, exits and entries from various locations” (6).

 

Tài liệu vừa được trích dẫn là một nghiên cứu về giới trẻ cư ngụ ở vùng Tây Sydney thuộc nguồn gốc Trung Đông và Châu Á, kể cả Việt nam. Trong một cuộc nghiên cứu khác, do SBS Corporation bảo trợ, giới trẻ gốc Việt đã có phản ứng rất tích cực và rõ rệt về bảo tồn văn hóa (80% +), về thưởng thức nhạc Việt nam (80% +), về am hiểu nguồn gốc văn hóa gia đình (80% +) và coi Úc Đại Lợi là ‘nhà – home’ (60% +) (7).

 

Tuy nhiên, phản ứng tích cực ấy có vẻ như không được cụ thể hóa bằng hành động tương xứng. Tại Úc, tiếng Việt không được coi là ngôn ngữ chiến lược (như trường hợp tiếng Quan Thoại, tiếng Nhật, tiếng Bahasha Indonesia...), nên rất ít người không thuộc nguồn gốc Việt nam theo học. Còn sinh viên học sinh gốc Việt cũng không chọn học các môn Việt ngữ, Việt văn, ở mức độ đông đảo cần thiết, đến nỗi các khoa Việt Học tại nhiều Viện Đại Học Úc đã phải đóng cửa từ nhiều năm qua. Hiện nay, Victoria University ở Melbourne là viện đại học duy nhất còn giảng dạy môn Việt học. 


Tình trạng nầy cũng không khác gì ở Mỹ. Theo giáo sư Trần Chấn Trí, việc giảng dạy Việt ngữ tại University of California at Irvine đang gặp nhiều trở ngại lớn. Ngoài vấn đề cắt giảm ngân sách, thay đổi học kỳ, tiếng Việt hay văn hóa Việt dường như chưa đủ sức hấp dẫn sinh viên không phải là người Việt. (8).


Nói tóm lại, trong 30 năm qua, cộng đồng Việt nam ở nước ngoài đã vượt qua rất nhiều trở ngại vật chấttinh thần để gặt hái được thành công trong hầu hết mọi lãnh vực sinh hoạt – và thử thách văn hóa lớn lao trước mặtnỗ lực về nguồn của thế hệ thứ hai và những thế hệ kế tiếp. Nếu con cháu chúng ta còn quan tâm tìm câu trả lờihome away from home, but is it still sweet home? thì chúng ta có thể lạc quan được.


Và bài nầy xin được kết thúc với mấy vần thơ sau đây của John Howard Payne:

 "An exile from home splendor dazzles in vain;

 Oh, give me my lovely thatch’d cottage again!

 The birds singing gaily that came at my call;

Give me them with the peace of mind clearer than all.

Home, sweet home".

 

Xin trân trọng cảm ơn quí vị và xin cầu chúc Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ Việt Nam Tự Do Kỳ 5 tại Sydney thành công.


(Sydney, 28 tháng 12 năm 2004)

* LS Lưu Tường Quang, AO, là Giám Đốc SBS Radio, cơ quan truyền thanh quốc gia văn hóa đa nguyên của Liên Bang Australia.

Notes:

(1) Mandy Thomas, Dreams in the Shadows – Vietnamese-Australian Lives in transition, Allen & Unwin, Sydney, 1999. (trang 122, 62, 154)

(2) Thomas T. Professor and M. Balnaves, New Land, Last Home: The Vietnamese Elderly and the Family Migration Program, Bureau of Immigration Research, Canberra, 1993.

(3) Ngọc Hân (ed.) Đặc San song ngữ Xuân Canh Ngọ, Sydney, 1990, No.2 (Hội Phụ Nữ Việt nam NSW): Phụ Nữ Việt Nam Giữa Hai Dòng Văn Hóa – Vietnamese Women Between Two Cultures by Lưu Tường Quang. (trang 4)

(4) Casula Powerhouse Arts Centre, In-Between 1.5 Generation Viet-Aust, Sydney 2002 – Lost and Found – A New Homeland: The Role and Characteristics of the 1.5 Generation by Lưu Tường Quang/ Chiều Chiều Ra Đứng Ngõ Sau: Vai TròĐặc Tính của Thế Hệ Một Rưỡi, Ngọc Hân chuyển ngữ.

(5) Migration Heritage Centre and Centre for Cultural Research, Generate: Mapping Youth Culture and Migration Heritage in Western Sydney, Sydney 2000. (trang 17)

(6) Nguyễn Xuân Quang, Tiếng Việt Huyền Diệu, Hừng Việt, Anaheim Ca., 2004.

(7) Ang, Ien Professor & others, Living Diversity – Australia’s Multicultural Future, Sydney, 2002.

(8) Nguyệt san Khởi Hành, Santa Ana, CA, số 98, tháng 12 năm 2004.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9987)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10280)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11184)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9931)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10180)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9633)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10016)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8781)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8510)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10030)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 9987)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9427)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10569)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9116)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10500)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11272)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8483)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12606)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10132)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8417)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9645)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9494)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8109)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9961)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9208)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13323)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9542)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8659)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10296)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8628)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8612)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14186)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10179)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8580)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11475)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11820)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8747)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8096)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9342)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10387)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8684)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8788)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16041)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9868)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11374)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10179)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8345)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
(Xem: 9259)
Theo Phật giáo, con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi một người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh.
(Xem: 9985)
Xuất gia không có nghĩa là sự trốn chạy cuộc đời, không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống hiện tạilẩn trốn mọi ràng buộc.
(Xem: 8581)
Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant