Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục đạo thần quang

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 17836)
Lục đạo thần quang

Dưới bóng râm của cây phượng tím trong sân trường Đại học, hai sinh viên, một nam, một nữ đang giúp nhau ôn bài. Bỗng nhiên, người nữ ngước nhìn đôi chim sẻ ríu rít trên cành cao, gương mặt nàng chợt ủ dột. Người nam nhận ra ngay, lên tiếng hỏi:

- Sao vậy?


- Ơ... A ...

- Đừng trả lời theo kiểu tiểu thuyết là “bụi bay vào mắt” nhé!

Người nữ biết không thể giấu bạn nhưng nàng sẽ không nói rõ điều bất an trong lòng mà sẽ chỉ chia sẻ cảm nghĩ, biết đâu bạn nàng sẽ mở cho nàng một lối đi. Nghĩ thế, nàng thở mạnh một hơi dài rồi nói bâng quơ:

- Em không nhớ đã đọc ở đâu câu Tổ Lâm Tế nói rằng “Lục đạo thần quang chưa từng bao giờ vắng mặt”. Anh hiểu câu đó thế nào?

Biết bạn sẽ vòng vo nên người nam liền giải thích:

- Anh nghĩ Tổ nói Lục đạoLục căn đó.

- Lục căn là sáu cửa ải của đầu mối tạo nghiệp sao lại là lục đạo được?

Không biết nàng thực sự không hiểu hay muốn đào sâu điều gì, người nam cứ giữ tâm an nhiên trả lời:

- Thiện còn chứa ác, có còn hàm không thì sao lục căn lại chẳng thể là lục đạo? Có lúc nào mắt, tai, mũi, lưỡi, khẩu, ý rời khỏi ta không? Cảnh hiện ra là mắt thấy, tiếng vọng lên là tai nghe, hương thoảng tới là mũi ngửi... và cảm thọ khởi lên sau khi thấy, nghe, ngửi... là vì ta để căn qua lăng kính phân biệt mới kết luận đẹp xấu, hay dở. Nếu khi ta thấy, nghe, ngửi, mà chỉ nhận biết đơn thuần bản chất đối tượng thì ta sẽ không bị đồng hóa với đối tượng.

Nàng thở dài:

- Làm sao khi đối cảnh mà tâm không động được?

- Ấy, lẽ đạo dễ mà khó là ở ngay chỗ đó. Sở dĩ chúng ta đối cảnh động tâm là vì ta quen huân tập như thế rồi nên tâm thức lúc nào cũng sẵn sàng khởi niệm phân biệt. Muốn tâm thức đi chỗ khác chơi để lục căn ghi nhận được thuần khiết bản chất đối tượng thì chúng ta phải tập, phải sửa những thói quen đã bám rễ đó. Tu là sửa. Dễ hay khó tùy thuộc công lựcquyết tâm của người muốn sửa.

- Tâm thức vốn vô hình, sửa đã khó, anh lại bảo hắn đi chỗ khác chơi là đi đâu? Tâm thức tuy vô hình nhưng có đó, vì nếu không có, ai làm việc phân biệt? Nếu ta sửa thành công, nghĩa là tâm thức sẽ thất nghiệp, thì nó đi đâu?

Chàng thong thả gấp sách lại. Học gì nỗi nữa với cô bạn rắc rối thế này! Nàng tưởng chàng bí. Nhưng không, chàng điềm tĩnh phản công:

- Anh chàng tâm thức này rất tội! Khi đã thất nghiệp rồi là lập tức vô gia cư. Đúng thế, anh chàng không còn chỗ trụ, bèn tự biến mình, nhẹ như tơ, thoắt một sát-na, tâm thức biến mất; hay nói khác đi, khi căn làm chủ được mình để chỉ nhận chân bản chất đối tượng thì thức hòa vào mênh mông, bát ngát, thức không còn hiện hữu trong thời gian, không gian nữa! Những gì có mặt trong không gian, thời gian thì còn quẩn quanh với sinh diệt; ngược lại cái đã thoát ra ngoài không gian, thời gian mới có thể hùng tráng đi ngang ba cõi mà không bị Mất-Còn, Sinh-Tử trói buộc.

Nàng cúi đầu, trầm ngâm. Chàng bồi thêm để mong kéo nàng ra khỏi “điều gì đó” đang khiến nàng phiền não. Chàng chỉ lên chùm phượng tím ngay trước mặt, hoa và lá đang lay động trước gió và gió ấy đang làm rơi dăm cánh hoa tàn:

- Này, em nhìn xem, gió đang làm rụng hoa, rơi lá nhưng cây phượng thì vẫn hiên ngang, lẫm liệt thế này, cây phượng đâu có rơi, đâu có chết vì nó biết nguồn nhựa xanh tươi đang luân lưu trong tự thân. Dẫu cho đến khi nào thân mục, rễ khô, cây phượng cũng có chết đâu! Cây phượng lại thành đất và đất lại nuôi cây mà! Thân tứ đại của ta cũng không khác. Khi ta an trú được trong tự thể bất sinh bất diệt của mình như cây phượng thì ta cũng an nhiên nhìn vui buồn, thành bại, xấu đẹp, giàu nghèo trôi qua, như cây phượng đang nhìn hoa rơi, lá rụng mà nó vẫn vui vẻ, an nhiên cho chúng ta bóng mát. Em thua cây phượng hả???

Chàng bất chợt cao giọng khi hỏi như thế vì chàng quyết tâm quật ngã giặc phiền não đang tấn công nàng. Quả nhiên, đang nghe chàng “từ bi thuyết pháp”, bỗng nhiên bị giáng một đòn như ngài Huệ Khả đi cầu đạo, bị Tổ Đạt Ma quát lớn “Đem cái tâm bất an của ngươi ra đây ta an cho” là lập tức ngộ đạo ngay. Tiếc thay, chàng không là Tổ Đạt Ma và nàng cũng không phải Huệ Khả nên câu hỏi gay gắt của chàng chỉ đủ làm nàng giật mình. Và tệ hại hơn, sau khi giật mình, nó còn như lời mắng mỏ, chạm vào vết thương đang mưng mủ. Đau quá, nàng òa lên khóc!

Chẳng những không là Tổ Đạt Ma, chàng còn mù tịt không dỗ dành nên cứ ngồi thừ ra, nhìn nàng khóc! Ấy thế mà lạ thay, chàng không cảm thấy bứt rứt chút nào, chỉ lặng lẽ nhìn. Còn nàng thì khóc như lâu lắm chưa được khóc, đôi vai rung rung theo từng nhịp thổn thức, nước mắt nước mũi tèm lem khiến nàng luôn nâng vạt áo lên chấm chấm, lau lau...

Cứ thế, chàng ngồi nhìn. Và nàng ngồi khóc.

Chàng là người nhìn. Và nàng là đối tượng bị nhìn.

Dẫu nàng là bạn, nhưng chàng không bị bi thương của nàng cuốn hút. Chàng chỉ đang ghi nhận thực thể trước mắt là nàng đang ngồi khóc. Thế thôi! Đây là Pháp Chiếu Kiến kỳ diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, an trú trong thiền tập trước ngoại cảnh...

Tình thế bất thần đảo ngược.

Khi nhận ra ánh sáng tươi vui đang lan tỏa trên tóc, trên mắt, trên trán, trên cả toàn thân chàng, nàng chợt im bặt, ngừng khóc.

Và bây giờ nàng ngồi nhìn chàng.

Như con đò chao đảo giữa bão táp đại dương vừa tìm về tới bến sông êm, nàng từ tốn, từng bước thấy mình.

Nàng nhìn niềm đau đang dày xéo tâm can như đang nhìn kẻ lạ. Nàng và niềm đau là hai biệt thể. Niềm đau không làm nàng đau được nữa vì nàng không hòa mình làm một với nó như dăm phút trước đây. Niềm đau chỉ còn là vật bị nàng quán chiếu. Nàng đang nhìn rõ mặt mũi nó như nhìn những con múa rối trình diễn. Nó là diễn viên, nàng là khán giả. Tuồng này dứt sẽ tới tuồng khác. Khán giả này ra về, khán giả khác sẽ đến. Đến và Đi nối tiếp không ngừng, nên nói Đến mà không nơi đến; nói Đi mà không nơi đi, chỉ có CÁI THẤY đến, đi, là vẫn đó.

Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào. Chính vì sự kiện “tất nhiên” như thế nên ta thường lầm tưởng cái ta thấy là do nhờ con mắt của thân tứ đại; nhưng không phải, vì khi ta ngưng thở, thân còn nằm đó với đầy đủ tay chân mắt mũi nhưng mắt không thấy được nữa. Vậy “cái thấy tất nhiên” kia không phải do con mắt của thân tứ đại mà có thì cái thấy đó từ đâu?

Quán chiếu tới đây, nàng cực kỳ xúc động. Nếu cái thấy không do nhục nhãn mà thấy thì cái nghe cũng không do nhục nhĩ mà nghe, vậy chúng là gì? Từ đâu? Phải chăng chúng đã TỰ CÓ nên không sinh diệt theo thân tứ đại? Vì tự có nên chúng chẳng từ đâu đến cũng chẳng sẽ về đâu. Chúng vĩnh hằng và Vĩnh Hằng là sự sống luôn luôn có mặt trong tự thân ta.

Còn gì nghi ngờ nữa, cái không sinh không diệt, không đến không đi, không trong không ngoài, không sạch không dơ... lại luôn hiện hữu trong suốt lưu ly không là PHẬT TÁNH thì là gì?

Lòng nàng chợt òa vỡ sự mầu nhiệm của Bản Thể Chân Như.

Sự chứng nghiệm này quá lớn lao, vượt qua sức chịu đựng của nàng. Nàng lay vai chàng, lay thật mạnh bằng hết sức của mình để hấp tấp hỏi:

- Anh! Cái gì đây? Em đang cảm thấy cái gì đây?

Trong khi chàng im lặng mỉm cười thì nàng vội vã kể hết, kể tỉ mỉ suốt chặng quán chiếu vừa qua. Hình như chặng đường đó chỉ có mấy phút, mấy giây hay là đã trôi suốt kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai của nàng?

Lòng họ hướng về Đạo, nghĩ về nhau thành khẩn quá, tới mức Tâm vừa Truyền Tâm mà họ không hay. Họ chỉ cảm thấy vô cùng hân hoan, cất tiếng cười trong vắt như thủy tinh khi hồi chuông rung báo giờ vào lớp rộn rã vang khắp sân trường.

Niềm đau nào mà không tan theo????

Nguồn: Tập San Pháp Luân 21


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20565)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18814)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18268)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13949)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15391)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19449)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20600)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25127)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14704)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21995)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20622)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25275)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15768)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20713)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18627)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30594)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26545)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant