Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đâu là nguồn chân hạnh phúc

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16390)
Đâu là nguồn chân hạnh phúc


Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh Trúc Lâm. Hai nơi này là nơi hội tụ Tăng đoàn rất đông và chính nơi đây, Ngài đã khai thị cho khá nhiều những vị Tỳ-kheo xuất gia từ hàng vương giả cho đến giới bình dân. Thế nhưng, không phải mọi người đều lãnh hội chân lý thậm thâm vi diệu trong cùng một thời điểm mà mỗi người lãnh hội tùy theo khả năng nhận thứcsuy nghĩ của riêng mình; cũng như một trận mưa xuống cây cỏ đều được hấp thụ. Song tùy theo từng loại thảo mộcthấm nhuần có nhiều ít. Suốt cuộc đời hành đạohóa đạo, Ngài tùy căn cơ đồ chúng mà giảng dạy, không phải ai cũng tuệ tri tánh tướng của sự vật một cách triệt để mà sự nhận thứcsai biệt theo quan kiến của từng người. Đây là câu chuyện của bốn vị Tỳ-kheo đàm luận trong một buổi chiều êm ả bên cạnh Kỳ Viên tinh xá với nội dung “đâu là nguồn chân hạnh phúc?”.

Bóng tà dương đang xuống dần sau dãy núi Malaya (Hi-mã-lạp-sơn). Gió muôn phương thổi lại, mang hương hoa về ướp thơm cảnh vật nơi tinh xá Kỳ Hoàn vào một chiều xuân. Cỏ cây làng mạc đượm vẻ thái bình, thanh tĩnh trong buổi hoàng hôn ấy.

Giữa thiên nhiên êm đềm, vừa ẩn vẻ hùng tráng, bốn vị Sa-môn cùng ngồi bàn luận dưới gốc cây cổ thụ trong tinh xá. Mỗi người đều có cảm giác rất riêng trong không gian thanh vắng như thế. Bỗng một vị lên tiếng bảo: “Này, các đạo huynh! Chúng ta hãy nghiệm xem trong đờiđiều chi đáng yêu và thích thú nhất?”. Nghe vị ấy nói, cả ba đều tỏ vẻ tán thành nói tiếp: “Hay lắm, chúng ta mỗi người nên suy nghĩ, rồi đưa ra quan niệm của mình để giải đáp xem ai đưa ra điều thích thú có lý nhất?”

Sau một hồi suy nghĩ, hình dung trong tâm tưởng, vị thứ nhất lên tiếng: “Theo tôi, vào tiết trong xuân, cỏ cây khoe sắc, muôn hoa hàm tiếu, chim hót líu lo, cảnh sắc như thắm đượm sự hiền hòa, phong cảnh thật là đẹp! Trong lúc ấy, ví ta được thả chiếc thuyền nhẹ theo dòng nước, hay mang bầu rượu đến sườn non thưởng ngoạn cảnh vật của đất trời, chắc trong đời không chi thích thú bằng!”

Vị thứ hai đáp: “Theo ý tôi, cảnh gia đình sum họp sau bao năm xa cách vẫn là vui nhất. Thế nhưng, cảnh sum họp ấy nếu có thêm vào đấy những sơn hào hải vị cùng rượu quý bên cạnh những điệu nhạc khoan nhặt, tiết tấu êm tai, với bao kĩ nữ tuyệt sắc cận kề, thì tôi thiết tưởng hạnh phúc trong đời chỉ trong ngần ấy!”

Vị thứ ba nói: “Tôi nghĩ, nếu ta được sanh ra trong dòng tôn quí giàu sang, ở cung vàng điện ngọc, châu báu đầy kho, ta muốn tận hưởng điều chi tùy thích. Khi ra đi, có xe ngựa, tôi tớ nâng chân sửa áo phục tùng. Về đến nhà, ta gọi đến lắm kẻ kính thưa hầu hạ! Trong cảnh ấy, thử hỏi còn hạnh phúc nào hơn? Theo ý tôi đó là hạnh phúc tột bực.”

Vị thứ tư lại bảo: “Cuộc đời này nếu chúng ta muốn tiền thì cũng có thể kiếm được, muốn có địa vị dùng tiền đổi lấy, rồi từ địa vị ta lại kiếm được tiền, điều ấy có lẽ còn dễ hơn tìm kiếm giai nhân. Nếu người nào có được đôi ba nàng hầu tuyệt sắc, kẻ ấy chưa chắc vua chúa sánh bằng. Còn hạnh phúc nào hơn khi cùng những người đẹp ngắm cảnh sơn thủy bâng khuâng hưởng lạc non hồng, lúc nghe giọng hát du dương, ngơ ngẩn như vào động bích, lại có lúc cùng người đẹp cạn chén đồng tâm, thỏ thẻ bên tai những lời êm ả, cùng ngắm mây xanh bàn câu phong nguyệt, chắc rằng hạnh phúc giữa trần gian không qua mấy điều tôi vừa kể.”

Sau khi nêu lên suy nghĩ của mình, bốn vị đều cho ý nghĩ của mình là đúng nhất, không ai chịu thua, cùng nhau tranh luận, bất phân thắng bại.

Bấy giờ, cách đấy không xa, đức Thế Tôn đang đi kinh hành quanh tinh xá Kỳ Hoàn, nghe sự bàn luận ấy, Ngài động lòng thương xót cho bốn vị Tỳ-kheo kia, liền bước đến hỏi: “Các ông bàn luận chuyện gì thế?” Bốn vị Tỳ-kheo không dám che giấu, phải đem sự thật thưa lên Ngài. Đức Phật bảo: “Những điều các ông vừa nói, đều là đường lối đi vào sự lo sợ, đau buồn, là địa ngục không có lối thoát, không phải hạnh phúc lâu dài, chân thật. Vì sao?”

Cảnh vật dù có tươi đẹp trong mùa Xuân, nhưng sang mùa Thu, đến Đông phải tàn tạ, héo gầy. Thân quyến tuy sum họp, vui cười, song có lúc sẽ phải đau khổ vì nỗi chia lìa cách biệt. Tiền của, xe ngựa là những vật không lâu bền, là những thứ ở ngoài thân, khi chết không đem theo được, đến như sắc dụcmối nguy hại vô cùng, nó làm cho con người thân thể suy mòn, tinh thần mờ mịt, chính vì sắc dục làm quốc gia suy vong vì những kẻ tham đắm nó. Những vấn đề các ông bàn luận ở đây đều là mối nguy hại, đều là con đường bước vào đau khổ triền miên, chính nó là nguyên nhân cho sự luân hồi bất tận. Chỉ có cảnh Niết-bàn là sáng suốt, thường còn, an vui trong sạch, đấy mới là nguồn hạnh phúc chân thật. Là Sa-môn, từ thân cắt ái, đoạn trừ những tham muốn nhiễm ô, lánh trần tìm đạo, các ông đừng để cho sự vui giả dối ám ảnh, mà tiến theo con đường chân chánh sáng suốt của mình”.

Nơi đây, đức Thế Tôn khuyên nhắc các vị Tỳ-kheo nên là kẻ thừa tự pháp, chứ không nên là kẻ thừa tự vật và Ngài nêu lên lý do tại sao thừa tự pháp tốt hơn. Bởi vì:

Bởi vì nếu chúng ta thừa tự tài vật thì cả thầy lẫn trò đều bị chê trách.

đệ tử của Phật chúng ta không nên bám víu vào của cải vật chất.

Vì thừa tự pháp giúp chúng ta sử dụng tài vật hợp lý.

Với pháp, chúng ta sẽ hạnh phúc trong giờ phút hiện tại, trong khi người đi tìm vật chất chỉ sống với quá khứ và tương lai.

Của cải vật chất chỉ làm ta thèm muốn có thêm, pháp giúp ta dù có ít tài vật vẫn vui.

Những ai thừa tự pháp không bao giờ khổ vì thiếu hụt vật chất, còn thừa tự tài vật thì thường nghèo nàn về pháp tài.

Pháp là vô hạn còn vật chất thì có giới hạn.

Đôi khi tài vật gây tai họa cho mình và kẻ khác.

Pháp dẫn đến giải thoát và dứt nhiễm ô, còn vật chất làm người ta thêm bám víu vào sanh tử.

Pháp không gây nhân chiến tranh xung đột nhưng vật chất thường là nguyên nhân.

Pháp không thể bị hủy diệt còn vật chất là thứ khả hoại, tài sản có thể bị cướp mất, nhưng ngay cả cái chết vẫn không thể cướp đi pháp tài.

Pháp khó gặp, tài vật dễ gặp.

Vật chất chỉ cứu cái xác, pháp cứu cả thân lẫn tâm.

Pháp dẫn đến dứt khổ, còn tài vật là nguyên nhân của khổ đau.

Pháp là nguồn gốc của mọi thiện pháp, tài vật thường là nguồn gốc của tội ác.

Pháp là vô giá, tài vật chỉ có giá trị nhất thời.

Pháp khiến tâm thanh tịnh, tài vật làm tâm ô nhiễm.

Pháp giúp cho ta tìm ra nguyên nhân của khổ, con đường dẫn đến diệt khổ còn tài vật chỉ tăng thêm lòng tham luyến thế gian.

Pháp mang lại sự thanh tịnh tâm hồn, tài vật mang lại sự lo âu buồn bã.

Pháp đi vào tim ta, còn tài vật chỉ ở năm cổng giác quan.

Pháp giúp ta yêu thương kẻ khác, còn tài vật là nguyên nhân khiến người ta ghét nhau.

Pháp giúp ta sáng mắt dễ thấy rõ sự đời, còn tài vật thì làm ta mù mắt vì tham. (Kinh Thừa tự pháp-số 3-TBộ I).

Và cũng trong chiều hôm ấy, đức Thế Tôn nhắc lại bài kệ:

Thương mừng sinh lo
Thương mừng sanh sợ
Biết rõ thương mừng
Đâu còn lo sợ.

Ham muốn sinh lo
Ham muốn sinh sợ
Nếu không ham muốn
Đâu còn lo sợ.

Ái dục sinh lo
Ái dục sinh sợ
Nếu không ái dục
Đâu còn lo sợ.

Ưa pháp trong sạch
Lòng thành biết thẹn
Sửa mình, gần đạo
Được chúng yêu mến.

Xa lìa thị dục
Nghĩ rồi mới nói
Lòng không tham ái
Sẽ thoát luân hồi.
(PC Thí dụ 50).

Đức Phật lại kể cho các vị Tỳ-kheo: “Về kiếp trước, có một vị quốc vương tên Phổ An, kết bạn thân với bốn ông vua bên nước láng giềng. Một hôm, vua Phổ An mời bốn người bạn sang nước mình hội yến. Tiệc hoa kéo dài đến một tháng, đàn ca, sáo thổi, thức ngon vật lạ đã làm cho tình thân hữu càng thêm đậm đà khắn khít. Đến ngày chia tay, vua Phổ An hỏi bốn người bạn rằng: “Trên đời có thú chi vui nhất?” Bốn vị quốc vương đều theo chỗ ưa thích tuần tự đưa ra mấy quan điểm: “Cuộc dạo chơi-gia đình sum họp-giàu sang sắc dục”. Vua Phổ An nói: “Những quan điểm của các ông nói là gốc của khổ não là nguồn lo sợ trước vui sau khổ, sầu lo muôn mối đều do đây mà ra chi bằng tịch tĩnh vô cầu vô dục, đạm bạc thủ đạo là an vui nhất.” Theo ý kiến của tôi: Những điều các ông bàn luận đều là thú vui mong manh, và nguyên nhân của đau khổ. Chỉ có đạo trong sạch là vui nhất.”

“Này chư Tỳ-kheo! Vua Phổ An thuở trước chính là thân ta ngày nay, còn bốn vị quốc vương kia là tiền thân của các ông đấy. Kiếp xưa, ta đã giải rõ sự khổ vui tận tường mà các ông vẫn còn ham mê tham đắm, chưa thấu hiểu và không nhận ra nên mới trôi lăn trong biển sanh tử cho đến đời này. Nếu hôm nay các ông không xem lại hành viý niệm của mình, không gia công tu tập thì bánh xe sống thác khổ đau chưa biết bao giờ dừng nghĩ. Các ông hãy là kẻ thừa tự pháp thì chắc chắn hạnh phúc chân thật không ngoài tâm ý của các ông.”

Ghi chú:
Heirs In the Dharma (Thừa tự pháp) -Trung Bộ I.
Kinh Pháp cú: phẩm Hiếu hỉ thứ 26 thí dụ 50.
Phỏng tại phẩm Hiếu hỉ 26 kinh Pháp cú thí dụ 50.
Phỏng theo thí dụ 50, phẩm Hiếu hỉ, kinh Pháp Cú.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 21


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14690)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14243)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16733)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24205)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20606)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18853)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21363)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18319)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19885)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14863)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12993)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13986)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13173)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14035)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17663)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15422)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14719)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14481)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17890)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21936)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19490)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20618)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25167)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16900)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14739)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19009)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22020)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20652)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25317)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15795)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15800)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20747)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17033)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18656)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20048)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39341)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31534)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30688)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36053)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23897)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26574)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant