Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21626)
Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử


Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử. Trong khi giảng pháp ở trước Tăng chúng, giọng nói của họ rất lớn, như thể làm cho sông Ngân hà ở trên trời cũng phải rơi xuống. Khi nghe họ giảng pháp như vậy, Câu-ca-lợi (Kokālika) vì không biết mình là một kẻ bất tài thiểu trí nên mong muốn được giảng pháp như họ. Thế rồi, Câu-ca-lợi đi vào giữa hội chúng Tỳ-kheo, nhưng dẫu có đi vào thì cũng không có ai chấp nhận cho thầy giảng kinh cả, vì thế thầy nói:

- Không ai yêu cầu tôi giảng kinh cả. Nếu có người yêu cầu, tôi sẽ làm việc đó.

Tăng chúng nghe thế thì nghĩ sẽ thử thầy. Họ nói:

- Thưa Pháp hữu Câu-ca-lợi, hôm nay thỉnh thầy giảng cho Tăng chúng một vài bài kinh.

Vị này đồng ý mà không biết sự ngây ngô của mình, và ngày hôm đó thầy đã giảng kinh cho Tăng chúng.

Đầu tiên thầy dùng hết số cháo nấu theo ý muốn, ăn một ít thức ăn và dùng một ít súp mà mình ưa thích. Sau đó vào lúc hoàng hôn, khi tiếng chuông báo hiệu thời giảng kinh được điểm và tất cả Tăng chúng tập họp lại, Câu-ca-lợi mặc hạ y có màu xanh như cây hoa chuông, đắp thượng y màu trắng bạch và đi vào hội chúng, đảnh lễ các Trưởng lão, bước lên pháp tòa đặt bên trong một Chánh pháp đường được trang sức bằng đá quý rất đẹp, tay cầm một cái quạt được trang trí tao nhã rồi ngồi xuống bắt đầu giảng kinh. Nhưng ngay khi đó, mồ hôi bắt đầu đổ ra khắp thân và thầy cảm thấy vô cùng bối rối. Thầy đọc được câu đầu tiên của bài kệ thứ nhất nhưng những câu tiếp theo thầy không thể nhớ được. Thế rồi trong trạng thái bấn loạn, thầy đứng dậy rời khỏi pháp tòa, đi băng qua hội chúngtrở về phòng riêng của mình. Một Tỳ-kheo khác, một người quảng học đã lên thay thầy giảng kinh. Từ hôm đó, tất cả các Tỳ-kheo đều biết Câu-ca-lợi là một người trống rỗng.

Một hôm, các Tỳ-kheo bắt đầu bàn luận việc đó trong Chánh pháp đường:

- Thưa các Pháp hữu, trước đây thật khó biết được Câu-ca-lợi là người thế nào. Giờ đây, thầy ấy vì muốn giảng kinh đã tự thể hiện sự trống rỗng của mình.

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang cùng bàn luận điều gì. Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Nói như vậy xong, đức Thế Tôn kể cho các Tỳ-kheo câu chuyện Tiền thân dưới đây.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì xứ Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con sư tử, là vua của một đàn sư tử đông đúc. Bồ-tát sống cùng với đàn sư tử ở trong một cái hang Bạc, và gần đó, có một con chó sói sống trong một cái hang khác.

Một hôm, sau trận mưa rào, cả đàn sư tử tập trung lại trước cửa hang của sư tử vương, rồi rống lớn, đùa nhảy như thói quen mà loài sư tử thường làm. Khi chúng rống lên và nhảy nhót như vậy, con sói kia cũng bắt chước cất lên tiếng kêu của mình.

- Đây là tiếng con sói hú lên khi nghe chúng ta rống! Những con sư tử nói.

Rồi cảm thấy xấu hổ, chúng lặng im không rống nữa. Khi cả đàn sư tử im lặng như thế, sư tử con của Bồ-tát hỏi cha:

- Thưa cha, cả đàn sư tử này đang rống lên và đùa nhảy, đã vội im lặng vì quá hổ thẹn khi nghe tiếng con vật kia. Con vật gì mà bằng tiếng kêu của mình đã để lộ chân tướng như vậy?

Và nó đọc lên bài kệ:

Kẻ nào kêu lớn tiếng
Vang dội Đạt-đà-la?
Sao tất cả sư tử
Không rống lại, thưa cha?

Nghe con hỏi vậy, Sư tử vương đọc lên bài kệ khác:

Sói, kẻ cất tiếng kia
Là loại thú đáng khinh.
Sư tử ghét hèn hạ,
Nên ngồi giữ lặng thinh .

* * *
Sau khi kể xong câu chuyện, đức Thế Tôn nói thêm:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Vào kiếp đó, Câu-ca-lợi là chó sói, La-hầu-la (Rāhula) là sư tử con, còn ta chính là sư tử vương.

(Tiền thân Daddara, số 172, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bình:

Không ai dám cho rằng mình là một người thông thái biết đủ mọi thứ trên đời. Và cũng không ai dám cho rằng mình là một người tài năng có thể làm được mọi việc. Con người vốn hữu hạn, hữu hạn trong sinh mệnh cũng như trong tri thứctài năng.

Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời này vẫn có những người không hề nhận ra được điều đó. Họ chưa bao giờ biết mình là ai, chưa bao giờ thấy được sự hữu hạn trong tri thứctài năng của mình nên cứ lầm tưởng mình là người đầy đủ tài trí, biết đủ mọi thứ trên đời. Cái dốt của con người không hẳn ở chỗ họ biết ít mà ở chỗ họ không thấy rằng mình biết ít. Trong kinh Pháp cú đức Phật dạy: “Người ngu biết mình ngu, nhờ vậy thành có trí, người ngu tưởng mình trí, thật xứng gọi chí ngu.” Vì vậy, khiêm tốn, biết được khả năng thật có của mình là cách sống của một người khôn ngoan, hữu trí.

Trong cuộc sống, đời nào cũng có những kẻ kém tài nhưng lại tưởng mình đa năng, và mỗi khi nghĩ mình tài năng thì họ lại cố khẳng định cho người khác biết. Mỗi khi vô tài mà muốn khẳng định có tài thì việc làm đó trở thành một trò cười cho thiên hạ, nếu không muốn nói là làm cho người khác phải xấu hổ thay. Cả hai phần của câu chuyện Tiền thân trên đây cho ta thấy được điều đó.

Câu-ca-lợi là một người bất tài vô trí. Sự bất tài vô trí đó sẽ không trở thành trò cười cho người khác nếu thầy nhận ra được nó và không có cái “tham vọng” vượt quá sức mình là “thăng tòa giảng kinh”. Cái đáng trách là ở chỗ này chứ không phải ở chỗ thầy bất tài. Cũng như con sói kia, tiếng kêu của nó dầu khó nghe thì cũng không có ai trách cứ gì nếu nó biết an phận đừng bắt chước rống lên tiếng rống sư tử.

Nhưng dẫu sao ở đây, thầy Câu-ca-lợi vẫn còn đáng quý là khi gặp “sự cố” ở trên pháp tòa, thầy đã biết bước xuống để nhường chỗ cho người khác giảng kinh và lòng vô cùng hổ thẹn khi trở về phòng riêng. Chừng đó thôi thầy cũng đã hơn rất nhiều người vì cuối cùng thầy nhận ra được mình là ai. Còn trong cuộc sống thực tế, có những người không thể được như thầy. Có những kẻ bất tài vô trí nhưng cứ nghĩ rằng mình thực tài hữu trí, để rồi dương dương tự đắc, xem trời bằng vung. Thiên hạchê cười cũng không hề thấy, hoặc có thấy cũng bất chấp. Rồi mỗi khi họ có cơ may được “thăng tòa”, dù chẳng làm được gì khi ngồi trên tòa đó, vẫn cứ ngồi ì như thế, không thèm biết người ta có nghe mình, phục mình hay không. Những người như thế mới thật đáng thương làm sao!

Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra được bài học: hãy khiêm hạ và biết lường sức mình trước khi làm một công việc gì. ❑

Nguồn: Tập San Pháp Luân 13


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14233)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16705)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24175)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20592)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18839)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21344)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18294)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19856)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14857)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12980)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13973)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13160)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14018)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17649)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15417)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14716)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14464)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17872)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21918)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19471)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20609)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25153)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16885)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14732)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19005)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20644)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25299)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15777)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15785)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20735)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17021)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18644)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20034)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39324)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31523)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30671)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36034)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23888)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26558)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant