Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyến đò canh ba

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 18014)
Chuyến đò canh ba


Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới, tùy theo định hướng của từng đối tượng.

Suốt chặng đường đời, đã bao lần lữ khách đứng bên sông, đợi bóng một con đò, lòng bâng khuâng tưởng về nơi sẽ tới, người sẽ gặp? Hay còi tàu giục giã sân ga có làm nôn nao bao người đi, kẻ ở?


Nhân gian đã từng ngược xuôi muôn vạn chuyến đi, về, nhưng con đò kia, chuyến tàu nọ chẳng lưu lại gì như:
“Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.”
Nhạn liệng giữa hư không,
Bóng chìm dưới nước.
Nhạn không để dấu vết lại,
Nước chẳng lưu bóng làm chi.
(VNPG sử lược, HT. Mật Thể)

Thế nên, nhân gian cứ đến và đi như gió thoảng mây trôi, cứ tiếp tục luân hồi chìm đắm, dù thảng hoặc, sách vở ghi lại những Đến và Đi “lịch sử” theo quan niệm hạn hẹp của nhân gian. Chẳng hạn - một sự kiện thôi - như chuyến đi của tráng sĩ Kinh Kha, một mình một kiếm sang Tần với nhiệm vụ giết bạo chúa để cứu muôn dân. Thí dụ sự kiện này vì Kinh Kha được ca ngợi tới mức danh-từ-riêng “Kinh Kha” được người đời dùng như một tĩnh từ kép để nói về cái đẹp, cái uy dũng, cái hào khí ngất trời, thỉnh thoảng thấy trong thơ văn, như bước-chân kinh-kha, khí-phách-kinh-kha, tấm-lòng-kinh-kha v.v... Tráng sĩ Kinh Kha không hoàn thành được sứ mạngâm mưu bị bại lộ. Dù không ai luận anh hùng qua sự thành bại, nhưng những huyền thoại quanh việc Kinh Kha sang Tần có những điều tàn nhẫn quá đáng. Chẳng hạn, trong tiệc rượu vua quan triều thần khoản đãi trước lúc ra đi, Kinh Kha chỉ buột miệng khen cánh tay đẹp của một ca nhi dâng rượu thì sau đó ít phút, một mâm tặng phẩm phủ khăn lụa đỏ được đem ra. Kinh Kha mở tấm lụa, thảng thốt. Đó là đôi tay đẹp của người ca nhi vừa dâng rượu!!!

Chuyến ra đi làm sao còn đẹp khi máu vô tội đã chảy vì bước chân người đi!?

Nhưng may thay, có những chuyến đi không tiệc rượu, không nhã nhạc, không cả tấp nập tiễn đưa, nhưng những chuyến đi ấy còn rực rỡ hào quang đến nay, còn là đuốc soi đường, còn vô cùng vô tận lợi ích quần sanh.

Các bạn có thì giờ không? Chúng ta ôn bài nhé, chỉ là ôn bài thôi, vì câu chuyện này chúng ta đều đã được nghe qua ít nhiều nên trong khi ôn bài, ta sẽ không chú tâm vào chi tiết nội dung mà sẽ nhìn bằng nhãn quan của người thưởng thức hội họa, nghĩa là nhìn toàn diện cái đẹp phảng phất, mênh mang đã tạo thành tuyệt tác, chứ không tấm tắc khen tranh vì bức này vẽ cái ly giống quá, bức kia vẽ bông hoa thật thắm tươi. Nhìn ngắm như thế, e rằng chúng ta chỉ thấy cảnh mà không thấy cái tâm đã tạo ra cảnh.

Bài ôn hôm nay là câu chuyện người thanh niên tên Huệ Năng, nhà nghèo, mù chữ, xuất thân từ đất Lĩnh Nam. Cha mất sớm, Huệ Năng làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chưa từng bao giờ được đến trường tiếp nhận một chữ Thánh Hiền. Một lần giao củi tới nhà khách, Huệ Năng thoáng nghe tiếng tụng kinh. Dừng sát bên vách, ghé tai chăm chú, chàng thanh niên đó nghe được câu kệ “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Chỉ câu kệ đó đã thúc đẩy Huệ Năng can đảm bước vào hỏi:

- Thưa ngài, ngài đang tụng kinh gì đó?

Khách bảo:

- Ta tụng kinh Kim Cang, do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai tuyên giảng.

- Thưa ngài, từ đây tới đó bao xa?

- Đi khoảng ba mươi ngày sẽ tới, ngươi hỏi làm chi?

- Thưa ngài, tôi muốn được nghe pháp vi diệu này.

Tấm lòng thiết tha cầu đạo của chàng thanh niên nghèo đã làm một thiện nhân cảm động. Người ấy đưa cho Huệ Năng mười lạng bạc, bảo về thu xếp sự ăn ở cho mẹ già để yên tâm lên đường trực chỉ Hoàng Mai.

Nếu duyên chưa hội đủ, có kẻ xa lạ nào sẵn lòng đưa mười lạng bạc cho người thanh niên nhà quê, làm nghề đốn củi, chỉ vì ý muốn vu vơ là tìm thầy học đạo?

Chỉ chi tiết này cũng đủ khiến chúng ta rơi lệ, phải không quý đạo hữu? Vì nếu không an tâm về cái ăn, nơi ở của mẹ già thì người con hiếu thảo như Huệ Năng không bao giờ ra đi được, dù là đi tìm đạo.

Chuyến đi đó, tranh vẽ nào có thể đẹp hơn?

Khi đến huyện Huỳnh Mai, Huệ Năng hỏi đường tới chùa Đông Thiền, vào bái yết Ngũ Tổ. Tổ hỏi:

- Ngươi từ đâu? Tới cầu chi?

- Thưa Tổ, con người Lĩnh Nam, tới cầu làm Phật.

- Người Lĩnh Nam quê mùa, sao cầu làm Phật được?

- Thưa Tổ, người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh thì không phân chia Nam Bắc. Thân quê mùa này so với Tổ có khác, nhưng Phật tánh trong thân này với thân Tổ nào sai khác chi đâu!

Nghe thế, Tổ Hoằng Nhẫn vội nói:

- Thôi được, hãy đi xuống nhà trù, lo công việc giã gạo.

Huệ Năng quỳ xuống, lạy tạ Tổ đã thâu nhận và vâng lời, xuống nhà bếp lo giã gạo, bửa củi.

Chúng ta tưởng Tổ tàn nhẫn ư? Không đâu, Tổ quá từ bi đấy, vì Ngài nhận ra ngay, thanh niên nhà quê này không phải là tầm thường. Trước mặt đông đảo môn sinh của chùa Đông Thiền, Ngũ Tổ không muốn họ nhận ra sự quan tâm đặc biệt của Tổ đối với kẻ nghèo khổ, vừa từ xa đến. Đó là Tổ muốn bảo vệ Huệ Năng, không chỉ buổi đầu đó mà để cho an toàn, tám tháng sau Tổ cũng không ngó ngàng tới người thanh niên suốt ngày bửa củi, giã gạo dưới bếp.

Nhưng hạt đã gieo, phải tới lúc nẩy mầm. Đó là khi Tổ gọi toàn thể môn sinh, hơn một ngàn người tới, truyền rằng:

- Các con theo học ta đã lâu, nay tới lúc kiểm điểm lại thành quả mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ, nói lên cái đã thấy biết của mình. Ta sẽ duyệt xét từng bài, hễ nội dung chứng tỏ đã ngộ, ta sẽ trao truyền y bát cho kẻ đó, lãnh trách nhiệm của vị Tổ thứ sáu.

Thật là một lời truyền vô cùng quan trọng. Cả ngàn môn sinh họp nhau bàn bạc rồi cùng đồng ý xin thầy Thần Tú đại diện, làm một bài thôi vì Thần Tú là người thông minh, trí tuệ nhất đại chúng, ai mà có thể làm hay hơn được!

Thần Tú viết bài kệ lên vách tường:

Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.

Đại ý, thân là cây Bồ-đề, tâm như tấm gương trong, phải luôn lau chùi quét dọn cho bụi khỏi bám vào.
Bài kệ được các đồng môn của Thần Tú nức nở khen hay, ai cũng thuộc, cũng đọc nghêu ngao suốt ngày, cho đến nơi nhà bếp, Huệ Năng cũng nghe được. Người thanh niên suốt tám tháng trời chỉ im lặng bổ củi, giã gạo, đã mon men đến bức tường có bài kệ đó, nhờ một người đọc lại cho nghe. Nghe xong, Huệ Năng bảo người ấy:

- Tôi cũng có bài kệ, nhưng không biết chữ, xin huynh viết lên giúp tôi được không?

Bài kệ của Huệ Năng như vầy:

Bồ-đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.

Đại ý, Bồ-đề - ví như thân - thật ra chẳng phải cây, tâm sáng như gương thì chẳng cần đài, bản chất đích thực “không là gì cả” thì lấy chỗ đâu cho bụi bám mà phải lo lau chùi!

Kệ của Thần Tú ở thể xác định, kệ Huệ Năng ở thể phủ định, hoàn toàn trái ngược. Khi hai bài kệ được viết gần nhau, đại chúng đều sửng sốt!

Ngay đêm đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà bếp tìm Huệ Năng.

- Ngươi biết vì sao ta không hỏi han chi tới ngươi trong tám tháng qua không?

Huệ Năng quỳ xuống:

- Đa tạ sự che chở của sư phụ, đệ tử đã biết.

- Tốt.

Và Tổ dùng gậy trúc, gõ xuống sàn ba tiếng, rồi thong thả đi ra.

Canh ba đêm đó, Huệ Năng tuân theo hiệu lệnh, lặng lẽ lên phòng Tổ. Cửa được đóng kín lại ngay sau bước chân. Dưới ánh nến lung linh, Ngũ Tổ cấp tốc giảng kinh Kim Cang cho người đệ tử không biết chữ. Huệ Năng đắc pháp ngay trong đêm, rồi được truyền quỳ gối, kính cẩn nhận Y Bát và lời chỉ dạy:

- Ngươi nay là Tổ thứ sáu, nhưng chưa thuận duyên để truyền giáo. Ngay đêm nay, ngươi phải lập tức lên đường, cố gắng bảo trọng thân mạng vì sự tranh giành Y Bát này sẽ xảy ra. Ta không có sự chọn lựa nào khác. Vậy hãy đi ngay trước khi trời sáng.

- Bạch sư phụ, con từ xa tới, nay biết phương hướng nào mà đi đâu?

- Chớ lo, ta sẽ đưa ngươi một đoạn thuyền.

Đêm đó, trời không trăng nhưng đầy sao. Bến đò Cửu Giang vắng vẻ, u tịch, nhưng hương đêm lãng đãng, làn nhang trầm phảng phất từ tàng kinh các nào. Trong không gian huyền hoặc đó, con đò nhỏ tách khỏi bờ lau, trôi êm về phương Nam. Sao trời lấp lánh trên áo nâu sồng của một già, một trẻ, không nói lời nào mà đang trao truyền muôn vạn lời.

Chuyến đò rời nhánh sông Cửu Giang đêm ấy đã để lại cho chúng ta bao tặng phẩm vô giá từ tấm lòng nhị vị Đại sư. Con đò nhỏ chở đầy từ tâm, độ lượng của Ngũ Tổtrí tuệ, nhẫn nhục của Lục Tổ đã thành những trang Bảo Đàn kinh châu ngọc, dẫn dắt chúng sanh nhận ra “Bản lai vô nhất vật”.

“Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác thì bản lai của anh là gì?”

Đó là bài pháp đầu tiên Lục Tổ độ cho người toan ám hại mình để giành Y Bát.

Sau đó, suốt mười lăm năm sống ẩn dật với đám thợ săn vì biết chưa hội đủ thuận duyên hoằng pháp, nhưng mười lăm năm đó, Lục Tổ Huệ Năng cũng đã phương tiện, độ cho bọn người chỉ biết một cách duy nhất để tìm thực phẩm là săn bắn.

Khi duyên đã đủ, Lục Tổ rời rừng núi, tìm đến chùa Pháp Tánh tỉnh Quảng Châu, nơi pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Hôm đó, trời nhiều gió làm lay động những màn, phướn treo quanh giảng đường. Lục Tổ nghe thấy hai vị Tăng đối thoại, người thì bảo “gió động”, người kia nhất định không phải gió, mà là “phướn động”.

Khi ấy, Lục Tổ đến bên, nhẹ nhàng bảo:

- Không phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà là tâm quý vị động đó thôi.

Vừa nghe như thế, hai vị Tăng bỗng ngộ.

Đó là bài pháp thứ hai mà Lục Tổ dạy cho chúng sanh. Giai thoại này lập tức đến tai pháp sư Ấn Tông đang ngồi trên tòa cao giảng kinh. Pháp sư cho mời người thanh niên có dáng vẻ nghèo nàn, lam lũ đó tới gần. Khi biết Huệ Năng từ Hoàng Mai đến, pháp sư hỏi:

- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn dạy ông những gì?

- Chỉ luận về sự “thấy tánh”.

- Còn thiền địnhgiải thoát thì sao?

- Đó là hai pháp nên chẳng phải Phật pháp vì nếu đích thực Phật pháp thì phải là pháp không hai.

Pháp sư Ấn Tông chưa hiểu kịp, bèn khẩn khoản:

- Xin ông dạy rõ hơn.

- Tỉ như thiện cănhai mặt: thường, hoặc vô thường. Tỉ như Uẩn và Giới, kẻ phàm phu phân biệt là hai, khi liễu ngộ mới thấy tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai Chính Là Phật Tánh, là thể trong suốt, chẳng thường cũng chẳng vô thường nên không hề bị đoạn lìa. Phật tánh đó, chúng sanh hoặc nhận ra, hoặc chưa nhận ra chứ không thể lưng chừng như ác lẫn thiện, đẹp lẫn xấu.

Đó là bài pháp thứ ba, Lục Tổ tuyên giảng khi chưa chính thức đăng đàn thuyết pháp.

Chính ba bài pháp đầu tiên này là nền tảng cho pháp môn Vô Niệm, mà Lục Tổ Huệ Năng đã hết lòng truyền dạy lại cho môn đồ, tứ chúng, để sớm nhận ra điều quan trọng, rốt ráo mà chư Phật bao đời đã khổ công mong chúng sanh đạt tới. Đó là, Nhận Ra Được Phật Tánh Của Mình.

Đa tạ tuệ nhãn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã nhìn suốt “kỳ tâm” của người thanh niên đất nghèo khổ Lĩnh Nam để hậu sinh được có Lục Tổ Huệ Năng.

Đa tạ con đò canh ba năm xưa, đã “Ưng vô sở trụ”, xuôi êm giòng pháp diệu kỳ để tròn đầy huyền nghĩa câu kinh lóng lánh Kim Cương: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 31


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16439)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 14405)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 12891)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
(Xem: 16589)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15712)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15173)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19286)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15793)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13857)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13983)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14499)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15272)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18186)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15284)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14771)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17993)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20767)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19566)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17123)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15799)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17213)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15942)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15257)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 15031)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 15030)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18078)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15807)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16781)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14491)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14387)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16592)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17471)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18687)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17030)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16451)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15718)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16515)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15480)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14308)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15466)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14879)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7604)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17213)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12341)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12269)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16606)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14704)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14566)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13882)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12500)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant