Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Tướng trạng của thần chú Mani

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7216)
5. Tướng trạng của thần chú Mani

MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT CÂU THẦN CHÚ
Nguyên Thành biên soạn

TƯỚNG TRẠNG CỦA THẦN CHÚ MANI

Nhiều hành giả Mật giáo suốt đời trì niệm thần chú sáu âm với niềm tin không lay chuyển và lòng sùng mộ vô biên Đức Quán Âm Tứ Thủ. Một khi niềm tin đã kiên cố thì người ta không cần tìm hiểu thêm những góc cạnh khác của thần chú Mani. Tuy nhiên, để dọn đường cho những hành giả sơ phát tâm tu tập bước đi dễ dàng vào đạo lộ tinh tấntrí huệ, trong sách này chúng tôi thiết nghĩ cần mô tả sơ qua về cái gọi là tướng trạng của thần chú Mani.

Thần chú Mani có 6 âm, mỗi âm có một ý nghĩacông năng riêng. Khi trì chú thì những âm trong thần chú kết thành tràng hoa, trang hoàng cho sự giải thoát. Giờ đây chúng ta sẽ đi vào chi tiết.

Theo quan điểm Mật giáo Tây Tạng thì thần chú Mani được phân nghĩa chiết tự như sau:

OM có nghĩa là quy mạng, hướng cả 3 nghiệp thân, khẩu, ý về Phật pháp.

MANI có nghĩa là viên ngọc như ý của trí huệ.

PADME có nghĩa là bên trong hoa sen, tức là lòng Đại bi nảy nở tựa như hoa sen vươn lên khỏi bùn lầy.

HUM có nghĩa là ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống.

Tóm lại, nội dung thần chú có thể tạm diễn dịch như sau: “Viên ngọc như ý trong hoa sen trí huệ giúp con thoát khỏi bùn lầy vô minh, làm cao đẹp cuộc sống.”

Theo giải thích của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV trong tác phẩm “Kindness Clarity and Insight” thì:

OM: tạo bằng 3 chữ A, U, M tượng trưng cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của hành giả, chúng cũng tượng trưng cho thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật.

MANI: viên ngọc, tượng trưng cho phương tiện đạt giác ngộ. Đại bi, Đại từ như là những viên ngọc như ý thỏa mãn nguyện vọng của chúng sinh muốn đạt giác ngộ cho mình và đem lại giác ngộ cho người khác.

PADME: hoa sen, trượng trưng cho Trí huệ, bởi hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Khi thiếu trí huệ mọi rắc rối sẽ xảy ra với chúng ta

HUM: dấu hiệu hợp nhất của phương tiệntrí huệ để đạt được sự tịnh hóa hoàn toàn.

Tóm lại, qua thực hành hợp nhất giữa phương tiệntrí huệ, chúng ta có khả năng làm cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của mình thành thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật.

Ngoài ra, theo giải thích của Đạo sư Tangtong Gyalbo thì:

OM: bao gồm năm trí siêu việt của chư Phật.

MANI: viên ngọc như ý (Bảo châu)

PADME: hoa sen. Hợp hai nghĩa này với nhau thì MANI PADME có nghĩa là “Ngài là Bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu” và đây cũng chính là tôn hiệu khác của Bồ Tát Quán Thế Âm.

HUM: có công năng bảo hộ chúng sanh trong sáu cõi luân hồi.

Tóm lại, ý nghĩa của thần chú Mani là: “Hỡi Bậc Đạo sư của năm thân Phật và năm trí Như Lai, Bậc Trì thủ Liên hoa Bảo châu! Xin Ngài hoan hỷ gia hộ chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi vượt qua thống khổ.”

Đạo sư Tangtong Gyalbo nhấn mạnh rằng, thần chú Mani có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng khi trì tụng không nhất thiết phải nghĩ tới ý nghĩa. Trong cách tự nhiên, thần diệu của sáu âm tiết thần chú phát ra từ tâm hay khẩu sẽ dần dần truyền đến hành giả trí huệđại bi của Đức Quán Thế Âm. Từ đó, hành giả cũng sẽ lan tỏa đến những chúng sanh liên hệ với mình trong hiện kiếp hoặc tiền kiếp.

Nói chung, khi trì chú Mani thì chính ngay lúc ấy chúng ta đóng cửa luân hồi trong sáu nẻo, hướng đến cõi tịnh độ giải thoát. Tuy nhiên, tướng trạng của thần chú Mani không tách rời vị Bổn tôn là Bồ Tát Quán Thế Âm. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV từng giải thích trong luận đề về giáo lý Phật giáo được trình bày ở trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) vào tháng 8 năm 1981 rằng, trì tụng thần chú trong bối cảnh quán tưởng Bổn tôn có công năng mạnh mẽ hơn.

Thế nào là quán tưởng Bổn tôn? Đó là linh ảnh của Đức Quán Âm Tứ Thủhành giả quán tưởng trước mặt bằng cách hưng vận tâm thức, đồng thời cùng lúc trì niệm thần chú.

Sau đây là vài nét sơ lược về quán tưởng Bổn tôn.

Quán tưởng là cách thực hành thiền quán bằng việc niệm câu thần chú kết hợp với sự hình dung một vị Phật hay Đại Bồ Tát do hành giả tự chọn theo hướng dẫn của vị thầy. Đây là một pháp môn rất hữu hiệu của Mật tông.

Trước khi đi vào chi tiết, cần phải biết qua một vài khía cạnh ngữ nghĩa. Pháp quán tưởng đang được đề cập ở đây là sự quán chiếu và hình dung một đối tượng kính ngưỡng nhằm mục đích tu tập. Điều này khác hẳn với sự tưởng tượng đơn thuầnthêu dệt ra những hình ảnh mà mình ưa thích hoặc ham muốn, hoặc do sợ sệt... vốn đều không có nền tảng của sự quán chiếu. Sự tưởng tượng như vậy chỉ là viễn vông, không có ý nghĩa xác thực gì. Tuy nhiên, vì là một hoạt động của tâm thức nên sự tưởng tượng đó vẫn có những sức mạnh, tiềm năng mạnh mẽ của nó. Khi cường độ của sự tưởng tượng trở nên sâu sắc, mãnh liệt, nó có thể khiến cho chủ thể của sự tưởng tượng sẽ nhận thức thực tại giống như trong tưởng tượng của mình.

Trong nền kịch nghệ nhân loại, người ta biết đến loại hoạt động tâm thức này qua vở kịch nổi tiếng “Người bệnh tưởng” của Molière (1622-1673), một kịch sĩ tài hoa của nước Pháp. Trong vở kịch, nhân vật chính luôn ám ảnh mình bị bệnh nặng, nhưng thực tế anh ta không có bệnh. Hậu quả là anh ta gây ra nhiều trò dở khóc dở cười, và kết cuộc anh chết vì căn bệnh tưởng hoàn toàn không có thật của mình.

Trên sân khấu là vậy, nhưng trong thực tế cũng có không ít trường hợp tương tự. Chẳng hạn, khi ở nơi hoang vắng như nghĩa địa, rừng sâu, người lữ khách có thể sợ sệt vì tưởng tượng đến quỷ ma. Đến một mức độ nào đó, anh ta có thể thấy ma quỷ xuất hiện... cho dù thực tế đó chỉ là những cây khô hay các vật thể nào đó... Đó là do sự tưởng tượng trong tâm thức chi phối nhận thức về thực tại khách quan.

Phương pháp quán tưởng được nêu ra ở đây để gia tăng oai lực của thần chúhoàn toàn khác, vì việc hình dung chính mình là vị Phật hay Bồ Tát (trong Mật giáo gọi là Bổn tôn) được dựa trên một nền tảng có thật là sự tương đồng về các phẩm tính tốt đẹp giữa bản thân hành giả với vị Bổn tôn được quán tưởng. Giải thích về điều này, Lạt-ma Thubten Yeshe khẳng định rằng, khi quán tưởng chính mình là Bổn tôn tức là ta đang kích hoạt những phẩm tính sâu xa tốt đẹp nhất có sẵn trong ta, cái gọi là Phật tánh, Chân như.

Đương nhiên, khi quán tưởng mình là Bổn tôn, chúng ta không phải tự dối mình, mà là thực sự đang làm hiển lộ những phẩm tính thiêng liêng vốn luôn hiện hữu trong ta. Trước hết, hành giả quán chiếu về những phẩm tính cao quý nơi vị Bổn tôn, như từ bi, trí huệ...; tiếp đến, hành giả quán chiếu về những phẩm tính đó đang tiềm ẩn trong chính mình, đang cần phải tu tập để hiển lộ, và qua đó hành giả thấy được sự tương đồng giữa vị Bổn tôn với chính mình. Hành giả càng “nhập vai” vào sự quán tưởng thì sự hình dung càng rõ nét và năng lực thần chú càng gia tăng, bởi đối tượng trì niệm thần chú lúc ấy không còn là phàm phu như chúng ta nữa, mà thông qua sức quán tưởng đã trở thành tương đồng với vị Phật hoặc Bồ Tát được quán tưởng.

Đó là phương pháp quán tưởng vị Phật bên trong. Nếu thấy khó thực hiện, chúng ta có thể chọn phương pháp đơn giản hơn là quán tưởng vị Phật bên ngoài.

Theo cách này, chúng ta tôn trí linh ảnh của vị Bổn tôn là Đức Quán Âm Tứ Thủ ngay trước mặt, với kích cỡ tùy chọn khoảng 9 x 12 cm hoặc 20 x 25cm. Ngồi xuống trên tấm đệm, thư giãn tâm trí rồi bắt đầu chiêm ngưỡng linh ảnh Ngài. Có thể nhìn ngắm Ngài chi tiết hoặc toàn diện. Có nghĩa là tập trung vào từng chi tiết như đầu, tay, chân, mão... của Ngài, hoặc nhìn ngắm toàn thể thánh tướng của Ngài. Trong khi tập trung chiêm ngưỡng linh ảnh, chúng ta niệm thần chú Mani.

Nói chung, việc trì niệm trong bối cảnh quán tưởng Bổn tôn sẽ phát huy tối đa công năng thần chú. Bởi lẽ lúc bấy giờ chúng ta bước vào kinh nghiệm của một niềm kiêu hãnh thiêng liênghóa thân một vị Phật, Bồ Tát. Tâm thức vượt thoát khỏi mọi giới hạn thông thường, được nâng lên một tầm cao giác ngộ. Tướng trạng thần chú do đó sẽ phát ra những ba động quang minh vi tế, khiến hành giả được trầm mình trong sóng lực tâm linh thần diệu. Từ đó có thể tương thông với bản nguyện bi mẫn vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Mặt khác, khi trì chú Mani hành giả sẽ được các loài quỷ thần, dù thiện dù ác, đều hết lòng ủng hộ, không để những tai ương xâm hại đến chỗ ở, đừng nói gì vào tận cửa nhà. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã xác quyết như thế trong Phẩm thứ 12.

Tướng trạng thần chú Mani còn được biểu hiện ở khẩu lực của hành giả. Sau những năm tháng trì niệm, khẩu ngữ của hành giả sẽ tuôn tràn những lời chánh ngữ, có ý nghĩa nội dung cùng với sức thuyết phục cao. Phong mạo của hành giả dần dần chuyển qua đạo phong cốt cách một cách tự nhiên không cần lưu tâm cố gắng. Đặc biệtlòng từ bi nảy nở trong hành giả mỗi ngày một lớn theo công phu trì niệm thần chú Mani.

Những căn bệnh mãn tính tưởng chừng bất trị sẽ dần dần giảm xuống cho đến khi hoàn toàn khỏi hẳn. Trong trường hợp bệnh nan y không thể chữa lành, hành giả trì niệm thần chú Mani tuy vẫn có sự đau khổ về thân xác nhưng trong tinh thần không còn sự lo sợ, phiền não như trước kia...

Những biểu hiện đó cho thấy tướng trạng của thần chú Mani đã lộ xuất, chứng minh sống động công phu tu tập của hành giả.

Sẽ là thiếu sót nếu bàn về pháp thiền quán Bổn tôn mà không đặc tả thánh tướng của Đức Quán Âm Tứ Thủ. Trong bài nguyện nổi tiếng “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sinh”, Đạo sư Tangtong Gyalbo mô tả như sau:

“Quy y Phật, Pháp và Thánh Tăng.

Cho đến khi con thành Chánh giác.

Nguyện các công đức con tạo được.

Như bố thí, trì giới, vân vân...

Khiến con thành Phật để độ sinh.

Chúng con chúng sanh đầy hư không.

Đảnh đầu đều có hoa sen trắng.

Và vầng trăng hiện Mật từ Hrih.

Đấng chí tôn thánh giả Quán Thế Âm.

Khiết bạch quang minh rực năm màu.

Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng.

Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu.

Hai tay trong bốn, trên chắp lại.

Hai tay phía dưới của Ngài cầm.

Đóa hoa sen trắng, chuỗi pha lê.

Lụa châu trang sức nghiêm thánh thể.

Choàng ngực da nai đội bảo quan.

Trên mão có Phật A-mi-đà.

Đang ngồi trong thế già phu tọa.

Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi.

Ngài là chân tínhdiệu thể.

Tất cả nương về để quy y.

Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm.

Bậc thánh hoàn toàn không khuyết vọng.

Thân báo thanh tịnh suốt một màu.

Đỉnh đầu nghiêm sức viên mãn Phật.

Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh...”

Có lẽ thánh tướng của Ngài được miêu tả mới nhất là trong chuyện kể của Delog Dawa Drolma khi bà được may mắn du hành đến cảnh giới của Ngài. Đối chiếu với những gì miêu tả trong kinh điển đều thấy chính xác và giống nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10182)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13568)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13707)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22176)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21839)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11722)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12315)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25235)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23260)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28560)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22752)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25667)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22271)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13421)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22439)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18450)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34478)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27346)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28369)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21353)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14878)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10613)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18556)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15657)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13174)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14014)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11784)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11623)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11878)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19935)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12388)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13936)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13267)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31932)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13426)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13321)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21843)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11084)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12888)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant