Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Một đời người, một câu thần chú

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8245)
6. Một đời người, một câu thần chú

MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT CÂU THẦN CHÚ
Nguyên Thành biên soạn

MỘT ĐỜI NGƯỜI, MỘT CÂU THẦN CHÚ

Đời người ngắn ngủi, bất quá chỉ được trăm năm. Trong đó, thời gian dành cho ăn ngủ, công việc, giải trí... chiếm hết khoảng 80%. Thời gian thực sự đến với thực hành giáo pháp, dù bất kỳ tôn giáo nào, cũng thật hiếm có. Đó là chưa kể đến bản tính giải đãi, tập quán ương ngạnh và niệm tưởng bất chánh khiến chúng sanh cứ mãi lang thang trong vực sâu tăm tối của tam đồ ác khổ.

Đức Quán Thế Âm dõi mắt xót thương muôn loài nên Ngài bi mẫn chỉ ra một mô thức cao siêu vi diệu, giúp chúng sanh vượt cõi luân hồi vào tịnh độ. Ngài dạy:

“Thiền quán về thánh tướng của Ta, trì tụng tâm chú của Ta, và cử hành nghi lễ chay tịnh vì Ta. Những ai nỗ lực thực hành như thế, mặc dù họ từng phạm một trong các tội ác ngũ nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián, Ta vẫn sẽ dẫn họ tới cõi Cực Lạc Tây Phương.”

Đây là thông điệp mới nhất mà Ngài đã phán truyền lại cho Delog Dawa Drolma vào đầu thế kỷ 20.

Đạo sư Dilgo Khyentse khi bình giảng tác phẩm “Kho tàng tâm của các bậc Giác Ngộ” của Đại thành tựu giả Patrul Rinpoche cũng đưa ra những lời khuyên chân thành dành cho công việc ý nghĩa nhất của đời người:

“Trong thời đại suy đồi này, vì trí năng hạn hẹp và thiếu quyết tâm, người ta cần thực hành Pháp trong một hình thức được tinh chế. Sự thực hành phối hợp lòng sùng mộ vị thầy như Bồ Tát Quán Thế Âm, kết hợp với trì tụng thần chú Mani (Om mani padme hum) đáp ứng tốt cho nhu cầu ấy. Thần chú Mani rất dễ nhớ để trì tụng nhưng lại tập trung tinh hoa của kinh điển Phật giáo. Nó là tinh túy tâm đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm và sức gia trìvô cùng, vô tận. Nếu bạn lấy nó làm sự thực hành chính cho mình thì người, trời và ngay cả nhưng ma quỷ xấu ác cũng sẽ tự nguyện giúp đỡ bạn, và bạn sẽ có một đời sống lâu dài, thoát khỏi bệnh tật và chướng ngại. Trong đời sau, bạn sẽ được sanh vào cõi Cực Lạc của trụ xứ Potala, hay ít nhất cũng vào một quốc độPhật pháp thịnh hành. Đó là bởi thần chú Quán Thế Âm chứa đựng sự gia trìlòng bi mẫn vô biên của chư Phật...”

Qua đây, chúng ta nhận thức rằng cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi ta biết thực hành Chánh pháp. Kinh điển Phật giáo khẳng định sự cao quý của loài người chỉ thể hiện thực sự khi họ biết tu tập Phật pháp để vượt sinh tử luân hồi. Vì các loài thuộc cảnh giới cao hơn như loài trời, loài thần cũng đều không có khả năng thích hợp cho việc tu tập Phật pháp như loài người. Và trong việc tu tập Phật pháp vào thời đại suy đồi này thì chỉ có thực hành trì tụng thần chú Mani là thích hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Bởi vậy, một đời người sẽ có được giá trị đích thực nhờ sự nối kết với một câu thần chú tinh túy sáu âm của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Chuyện kể rằng, vào thế kỷ 10 có một công chúa của vương quốc Ấn Độ, xuất gia khi còn trẻ, có pháp danh là Gelongma Palmo (hay tỳ-kheo ni Lakshmi). Bà thọ nhận nhiều giáo lý từ những Đạo sư vĩ đại và thực hành tinh tấn miên mật. Do nghiệp quá khứ chín mùi, bà bị mắc bệnh phong cùi, bị mọi người xa lánh, ném vào rừng. Bà có thị kiến về Vua Indrabodhi, Ngài khuyên bà nên thực hành pháp Avalokiteshvara (tức là pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm).

Bà đã trì chú của Đức Quán Thế Âm nhiều năm liền và liên tục thực hành nhập thất Nyungne, là một thực hành chay tịnh đặc biệt để tịnh hóa nghiệp chướng và tăng thêm sinh khí cho hành giả. Nhờ lòng sùng mộ và tinh tấn không ngừng, bà dần dần khỏi hẳn bệnh phong cùi. Bà cũng đồng thời phát triển tâm đại bi vô hạn đối với mọi chúng sanh. Bà trở thành ni sư giác ngộ, dẫn dắt nhiều đệ tử trong việc thực hành pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Một hành giả vĩ đại khác suốt đời hành trì pháp Quán Thế Âm là Tangtong Gyalbo (1385-1509). Ngài sinh ra ở miền Tsang thượng của Tây Tạng. Một hôm, khi đang thực hành trì niệm thần chú Mani, Đức Quán Thế Âm siêu phàm hiện ra trước mắt Ngài và chỉ dạy, ban phép quán đảnh. Ngài đạt giác ngộ nhờ tinh tấn tu hành. Dựa trên sự thành tựu của mình, Ngài biên soạn Nghi quỹ thực hành pháp “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” để hướng dẫn chúng sanh thực hành pháp tu Quán Thế Âm. Sau khi giác ngộ, Ngài cũng khám phá nhiều bí lục giáo phápgiới thiệu cho nhiều người tu học. Ngài đã tôn tạo vô số hình tượng, tháp thờ... tượng trưng cho thân, ngữ, tâm của Đức Phật. Ngài đã xây dựng hơn 100 cầu, phà và cầu treo bằng sắt để làm lợi ích cho chúng sanh. Để khuyến khích thiện hạnh trong dân chúng và để hỗ trợ cho phí tổn công việc xây dựng, Ngài đã miêu tả cuộc đời những Bồ Tát trong quá khứ, đặc biệtBồ Tát Quán Thế Âm bằng hình thức biểu diễn nhạc kịch dân gian. Hoạt động hoằng dương giáo pháp, hóa độ quần sanh của Ngài thật là không thể nghĩ bàn...

Để có thêm luận cứ về xác quyết trên, chúng tathể tham cứu thêm những lời tâm huyết của Lạt-ma Zopa Rinpoche, người hiện nay đang lãnh đạo Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Phật giáo Đại thừa trên thế giới. Lời dạy của Ngài thông qua bài giảng mang tựa đề “Những ích lợi của việc trì tụng thần chú Om mani padme hum”. Đương nhiên, dù chỉ một lần đọc tụng thần chú Mani cũng được lợi lạc vô cùng, nhưng để được kết quả khả quan trong đời hiện tạiđời sau nữa, chúng ta cần tinh tấn trì niệm suốt một đời người. Sau đây là bản văn chi tiết:

“Những ích lợi của việc trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thật là vô biên, như bầu trời bao la vô tận.

“Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết chỉ là câu thần chú Om mani padme hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch, thoát khỏi bám luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om mani padme hum, thì đó là Pháp thanh tịnh nhất.

“Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó hoàn toàn không đơn giản. Ở đây tôi sẽ đề cập cốt lõi của những lợi lạc vô biên đó.

“Trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn này chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hóa sự phá vỡ bốn giới nguyện gốc của Biệt giới giải thoát, và năm tội nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián.

“Trong các tantra (mật điển) cũng đề cập rằng, nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để sinh vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A-mi-đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc lâm chung sẽ được thấy Đức Phậthào quang xuất hiện trên bầu trời; có chư thiên hiện ra cúng dường; không bao giờ bị tái sanh vào các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bạn sẽ tái sanh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật hay vào một cõi tái sinh tốt đẹp.

“Khi một người trì tụng mỗi ngày 10 chuỗi thần chú này bơi lội trong sông, biển... thì nước chạm vào thân thể người ấy cũng có được sức gia trì.

“Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên của người đó không còn bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng lực của thần chú, thân thể với lực gia trì của những người trì tụng thần chúquán tưởng chính họ trong thánh tướng của đức Quán Thế Âm trở nên mạnh mẽ với lực gia trì động đến tâm thức cho tới bảy đời và kết quả là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện, người ấy cũng sẽ không bị tái sanh vào các cõi thấp.

“Vì thế, khi một người mỗi ngày từng trì tụng 10 chuỗi thần chú Om mani padme hum đi xuống sông hay biển, nước chạm vào thân người ấy cũng sẽ có được lực gia trì, rồi chất nước có lực gia trì đó sẽ có thể tịnh hóa hàng tỉ tỉ chúng sinh sống trong nước. Người này cứu giúp những sinh vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng được ở các cõi thấp. Lợi lạc như vậy thật đến mức khó tin!

“Khi một người trì chú như thế đi trên đường, gió chạm vào người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào những côn trùng có thể giúp cho những nghiệp bất thiện của chúng được tịnh hóa, và nhờ đó chúng sẽ có một tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi người ấy xúc chạm vào thân người khác, nghiệp bất thiện của người kia cũng sẽ được tịnh hóa.

“Một người như thế thì việc ngắm nhìn cũng thật ý nghĩa! Việc nhìn và xúc chạm trở thành phương tiện để giải thoát chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người đó chạm vào thân của chúng sinh khác cũng tịnh hóa được nghiệp bất thiện của họ. Bất kỳ sinh vật nào uống nước trong dòng chảy từng có người trì chú như thế bơi lội cũng đều được tịnh hóa.

“Chúng ta may mắn lạ lùng là đã gặp được Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền quán về Đức Phật Bi Mẫn. Đó là phương pháp dễ dàng tịnh hóa bất kỳ nghiệp bất thiện nào mà ta từng tích tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa.

“Bởi chúng ta từng gặp được Phật phápđặc biệtphương pháp [trì chú] này, thật dễ dàng để tịnh hóa nghiệp bất thiện và tích tập công đức vô biên, và do đó thành tựu Giác ngộ. Chúng ta thật may mắn không ngờ.

“Như thế, chẳng còn gì ngu muội hơn việc không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội làm người này. Nói chung, chúng ta thường xao lãngphí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế, mọi hành vi về thân, ngữ, tâm đều bị hoen ố bởi tham, sân, si, tạo nên nghiệp bất thiện, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không còn gì ngu muội hơn việc sử dụng thân người hoàn hảo này chỉ để tạo nên đau khổ...”

Trong khi những dòng chữ này đang được viết ra thì ở Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ và Ladakh đều đang thực hiện khóa nhập thất Quán Âm Tứ Thủtrì niệm 100 triệu biến thần chú Om mani padme hum. Khóa nhập thất này cũng được tổ chức ở Viện Chenrezig dưới sự hướng dẫn của Tổ chức FPMT (Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Đại thừa), mỗi năm chỉ diễn ra một lần!

Ở nước ta chưa có những cuộc nhập thất như vậy, mặc dù không thiếu phương tiệnđiều kiện tổ chức. Một số tăng ni cho rằng trì niệm thần chú chỉ để phát triển thần thông, không liên quan gì đến tinh thần từ bi của Đại thừa. Song, vấn đề không phải vậy. Bởi thần chúbản tâm của chư Phật, cho nên càng trì niệm bao nhiêu, hành giả càng đến gần với bản tâm của chư Phật bấy nhiêu, cho đến khi trở thành hợp nhất. Nhận định về luận điểm này, Lạt-ma Thubten Zopa nói:

“Cho dù bạn hiểu biết giáo lý về cách thiền quán tâm Bồ-đề, bạn vẫn cần thọ nhận những lực gia trì đặc biệt của vị Bổn tôn, Đức Phật Bi Mẫn. Bạn nhận những lực gia trì này bằng cách thực hiện thiền địnhtrì niệm thần chú Om mani padme hum. Như thế, việc thực hành tâm linh này cũng là một phương pháp thể nhập tâm Bồ-đề, chuyển hóa tâm bạn thành tâm Bồ-đề và làm cho việc thiền quán tâm Bồ-đề của bạn có hiệu quả.”

Lạt-ma Zopa còn cho biết, ở trụ xứ của Ngài tại Solu Khumbu trong rặng Hy-mã-lạp sơn thuộc địa giới Nepal có những người sống cuộc đời bằng việc làm duy nhất: Trì tụng Om mani padme hum, nhưng không biết một chút gì về giáo nghĩa. Mặc dù họ không thể đọc được chữ viết, nhưng họ có lòng sùng mộ vĩ đại đối với Bồ Tát Quán Thế Âm. Và như thế họ trải nghiệm một cuộc sống ý nghĩa cao cả mà chính bản thân họ cũng không ngờ được.

Dĩ nhiên, mỗi hành giả Mật chú thừa cần phải nhận lễ Quán Đảnh để cho sự hành trì thần chú Mani được kết quả cao, đặc biệt là nhận được nhiều sự gia trì từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini. Ý nghĩa của việc Quán Đảnh như thế nào, người viết đã có lần đề cập đếntrong một tác phẩm trước đây.

Trong trường hợp chưa được nhận phép Quán Đảnh, hành giả vẫn có thể hành trì cho đến khi có duyên lành gặp được thiện tri thức, đạo sư, chứ không vì vậy mà cô phụ lòng bi mẫn của Đức Quán Thế Âm. Đó là trường hợp của đạo hữu Mật Giác tại thành phố Đà Nẵng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14298)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14348)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13266)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14628)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25217)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27858)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26333)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17223)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22127)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17126)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24889)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21947)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14772)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18007)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12916)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28002)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27162)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20933)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28660)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14729)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13280)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16440)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27221)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16070)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21462)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant