Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Vượt luân hồi vào tịnh độ

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7758)
7. Vượt luân hồi vào tịnh độ

MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT CÂU THẦN CHÚ
Nguyên Thành biên soạn

VƯỢT LUÂN HỒI VÀO TỊNH ĐỘ

Nhờ nguyện lực vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm, thần chú Mani của Ngài mang đến lợi ích cho vô lượng chúng sanh trong sáu cõi luân hồi. Từ việc được nghe, đọc tụng cho đến trì niệmquán tưởng, liên hệ đến sáu âm Om mani padme hum đều được lợi lạc không thể nghĩ bàn.

Tuy nhiên, do căn cơ của mỗi người đều khác biệt, cho nên cần biết phương pháp hành trì thần chú Lục tự đại minh này để phát huy hết nội lực của mình.

Cũng như những hoạt động tâm linh khác, phương pháp hành trì thần chú Mani nên đi từ mức độ dễ đến khó, từ giản đơn cho đến tinh tế. Song, ở bất kỳ trình độ nào mà hành giả có sự chuyên chú, nhất tâm đều sẽ triển khai được thần lực của thần chú. Tất cả hoạt động của thân, ngữ, tâm để phát ra câu thần chú Mani một cách đều đặn, thường xuyên gọi là “trì chú”. Giờ đây chúng ta đi vào từng cấp độ một: thần chú thông dụng, đại thần chú, đại minh thần chú, vô thượng thần chú, vô đẳng đẳng thần chú.

1. Thần chú thông dụng: hành giả đọc, tụng, trì niệm sáu âm Om mani padme hum bằng khẩu và ý. Khẩu là đọc hoặc tụng, ý là niệm thầm trong tâm trí.

2. Đại thần chú: Cách trì chú cũng như trên nhưng bổ sung thêm thủ ấn. Trong kinh “Mật giáo Đà la ni thủ ấn đồ tập”, thủ ấn đi kèm theo thần chú Mani là “Quán Âm Thanh Cảnh Ấn”.

3. Đại minh thần chú: Cách trì chú cũng như cách thứ hai nhưng khi trì chú, hành giả dùng cách niệm kim cương vào ra theo hơi thở. Thở vào niệm Om mani, thở ra niệm Padme hum.

4. Thần chú vô thượng: Cách trì chú cũng như cách thứ ba nhưng hành giả cần đi thêm một bước nữa là quán tưởng hình ảnh Bổn tôn (Quán Âm Tứ Thủ) ở trên đầu hoặc trước mặt.

5. Thần chú vô đẳng đẳng: Cách trì chú giống cách cách thứ ba nhưng ở đây hành giả quán tưởng chính mình là vị Bổn tôn.

Như đã nêu trên, trong 4 oai nghi của con người thì khi ngồi theo thế kiết già hành giả sẽ trì chúhiệu quả nhất. Trong trường hợp đi đường, lái xe, ngồi xe buýt, máy bay... hoặc ngồi chờ ai đó nơi công sở... hành giả nên sử dụng cách trì chú thứ nhất là tiện lợi nhất. Cách trì chú thứ tư và thứ năm tức là “thần chú vô thượng”, “thần chú vô đẳng đẳng” khó thực hành hơn. Chỉ khi nào thuần thục quán tưởng trong thiền phòng hoặc thiền đường rồi mới có thể áp dụng ở những nơi khác.

Chúng ta đã biết công năng không thể nghĩ bàn của thần chú Mani. Tuy nhiên, tùy theo mỗi cấp độ mà hiệu quả có phần khác nhau. Thuần thục ở hai cấp độ của “thần chú thông dụng” và “đại thần chú”, hành giả phát huy được thần thông thông thường (kính ái, tăng ích, tiêu tai, hàng phục, câu triệu).

Ở cấp độ “thần chú đại minh” khi đã thuần thục, tâm thức của hành giả hòa nhập với cõi trời Sắc giới (đạt định từ cấp một đến cấp bốn). Lúc này, hành giả đạt được thắng trí, có thể khai triển thần thông dễ dàng và lợi mãnh hơn hai cấp độ đầu.

Ở cấp độ của “thần chú vô thượng” (có nghĩa là không gì cao hơn) hành giả bắt đầu bước vào mép cửa của thần thông tối thượngtrí huệ Bát-nhã.

Sau khi thuần thục ở cấp độ “thần chú vô thượng” hành giả đi vào căn nhà trí huệ Bát-nhã như nó là của mình, cho nên gọi là “thần chú vô đẳng đẳng” (không gì có thể so sánh được). Trong giai đoạn trì niệm này, hành giả dần dần thẩm nhập trí huệ Bát-nhã mà cụ thểcác loại trí huệ như: đại huệ, minh huệ, diệu huệ, pháp huệ, trí huệ biện tài vô ngại, trí huệ tổng hợp. (Geshe Achaya Thubten Loden viết trong tác phẩm “Biển Phương tiệnTrí huệ bất khả phân).

Ở đây cần giải thích trí thứ sáu là “trí huệ biện tài vô ngại”, còn gọi là “Tứ vô ngại biện”, tức là bốn loại tài trí biện luận không bị ngăn ngại như sau:

1. Pháp vô ngại biện: rõ biết tất cả các pháp không ngăn ngại, từ các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát hay chư Phật.

2. Nghĩa vô ngại biện: rõ biết nghĩa lý không ngăn ngại, tuy có phân ra ba thừa khác nhau biết rõ là rốt ráo chỉ quy về một thừa chân thật, không thấy là có tướng khác nhau.

3. Từ vô ngại biện: khả năng sử dụng ngôn từ không ngăn ngại, đối với một pháp vẫn có thể tùy nghi sử dụng vô số tên gọi.

4. Nhạo thuyết vô ngại biện: khả năng thuyết pháp không ngăn ngại, có thể vì chúng sanh hoan hỷ diễn thuyết tất cả các pháp, khiến người nghe vui thích.

Bảy trí huệ trên thành tựu, hành giả sẽ được Ngũ trí Như Lai: đó là Diệu quán sát trí, Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Thành sở tác tríPháp giới trí. Lúc đó gọi là trí huệ của vị Phật chánh đẳng chánh giác.

Trên con đường Bồ Tát Đại thừa, hành giả phải đi qua tuần tự năm con đường đạo gọi là “ngũ đạo lộ”, tức là trải qua 51 nấc thang tu tiến, nhưng trong Mật thừa thì pháp môn trì chú cũng giúp cho hành giả tự nhiên được đi qua các đạo lộ đó. Đây là luận giải của Đạo sư Tultsim Gyaltsen, đại hành giả Mật tông của Tây Tạng, xuất thân từ tu viện Ganden, sáng lập ra Đại học Phật giáo Mật tông Thubten Dhargye Ling, ở Long Beach, bang California, Hoa Kỳ.

Ngài cho rằng “Đại thần chú” liên hệ đến Tư lương đạo (giai đoạn tích lũy), “Đại minh chú” liên hệ đến Gia hành đạo (giai đoạn chuẩn bị), “Vô thượng thần chú” liên hệ đến Kiến đạo (giai đoạn thấu hiểu) và “Vô đẳng đẳng thần chú” liên hệ đến Thiền định đạo (giai đoạn tu tập), được chỉ ra trong năm đạo lộ phải đi qua của Bồ Tát Đại thừa. Từ đây có thể cho chúng ta thấy giá trị vô song của thần chú Mani.

Qua luận giải, chúng ta đã nhận thức sâu sắc về tướng trạng của thần chú, công năng cao siêu vi diệu của thần chú. Nhưng để được như vậy, chúng ta phải sử dụng “Ba phương tiện tối thượng”:

– Thứ nhất là chuẩn bị tâm qua việc phát tâm Bồ-đề.

– Thứ nhì là pháp thực hành chính yếu, tức là trì niệm thần chú Lục tự đại minh không xao lãng.

– Thứ ba là kết thúc mỗi thời khóa hành trì chúng ta đều hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

Trong tác phẩm “Diệu pháp đạt Giác Ngộ” Đạo sư Dilgo Khyentse nhấn mạnh:

“Ba phương tiện này phải được ứng dụng cho bất cứ pháp thực hành nào, dù chỉ là trong giai đoạn phát sinh hay giai đoạn thành tựu của Mật giáo, hoặc đối với pháp hành Đại thủ ấn, Đại toàn thiện, Trung đạo. Thiếu một trong Ba phương tiện này thì không thể đạt được kết quả tốt.”

Cụ thể chi tiết của nghi quỹ hành trì thần chú Mani được trình bày rõ ràng như sau:

Phương tiện thứ nhất:

Trong đạo phục nghiêm trang, hành giả ngồi kiết già hoặc bán già trên tọa cụ xướng ngôn:

“Đệ tử là... xin quy y Đạo sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng từ đây cho đến khi giác ngộ tối thượng! (3 lần) Để giải thoát chúng sanh khỏi lục đạo luân hồi, đệ tử hôm nay thực hành trì chú Mani, xin Đức Bổn tôn chứng minh và gia hộ!”

Phương tiện thứ nhì:

Hành giả đi vào phần chính cũng tác bạch Bổn tôn:

“Giờ đây đệ tử bước vào phần chính của trì chú, xin Đức Bổn tôn gia trì thần lực.”

Hành giả bắt đầu trì chú

Tùy theo trình độ, mỗi hành giả trì niệm các cấp độ thần chú khác nhau. Riêng “thần chú vô thượng” và “thần chú vô đẳng đẳng” có phối hợp quán tưởng Bổn tôn bên ngoài và bên trong nên hành giả cũng cần tiến hành tuần tự theo diễn trình sau đây:

– Đối với Bổn tôn bên ngoài, hành giả quán tưởng trên đầu một hoa sen lớn màu trắng hoặc màu khác tùy theo sở thích, trên đó là một chủng tự Hrih tỏa hào quang. Lúc này, hành giả bắt ấn triệu thỉnh và niệm tinh túy thần chú là 3 âm : OM AH HUM. Liền sau đó linh ảnh của Quán Âm Tứ Thủ hiện lên từ chỗ chủng tự. Bấy giờ trong tâm thức hành giả, thánh tướng của Ngài dần dần xuất hiện đầy đủ những tướng hảo chánh và phụ.

Nếu không quán tưởng được như trên hành giả chỉ cần đọc bài nguyện “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” của Đạo sư Tangtong Gyalbo là Bổn tôn sẽ xuất hiện trên đỉnh đầu. Trong bối cảnh có Bổn tôn lấp lánh hào quang, đôi mắt bi mẫn nhìn chúng sanh, hành giả trì niệm thần chú Om mani padme hum.

– Để quán tưởng Bổn tôn bên trong, hành giả dùng thủ ấn thỉnh nhập niệm Om ah hum, hình dung Bổn tôn trên đầu hòa nhập với ta thành một. Bấy giờ hành giả mang thánh tướng của Bổn tôn với đầy đủ những tướng chánh và phụ của Bồ Tát đẳng giác. Lúc này, hành giả trì niệm thần chú Mani cũng không gì khác biệt với Đức Quán Âm Tứ Thủ tuyên thuyết thần chú. Muôn ngàn tia sáng đủ màu phóng xuất ra từ hành giả trong thân tướng Bồ Tát làm lợi lạc chúng sanh muôn loài đang khổ đau và mong cầu giải thoát. Ánh sáng màu trắng làm lợi lạc cho những người thân (cha mẹ, ông bà, anh em... đã chết) ở vị trí bên tay trái hành giả; ánh sáng vàng làm lợi lạc cho những người thân đang còn sống, ở bên tay phải hành giả; ánh sáng màu đỏ làm lợi lạc cho những kẻ thù, kẻ đối nghịch, ở phía trước mặt hành giả; ánh sáng màu xanh làm lợi lạc cho bằng hữu của hành giả, ở phía sau lưng; ánh sáng màu tím nhạt làm lợi lạc cho những oan hồn uổng tử, ở về phía sau chót.

Công phu càng sâu dày, thần chú của hành giả càng phát ra công năng mãnh liệt, cho đến khi hành giả và vị Bổn tôn trở thành tương thông hợp nhất. Đây là công phu của “thần chú vô đẳng đẳng”. Sau thời thiền, hành giả quán tưởng những ánh sáng năm màu ấy biến thành hàng ngàn, hàng vạn quả cầu nhập vào tim hành giả. Từ đây, hành giả trong thánh tướng Bổn tôn thể nhập vào tim Phật A-mi-đà ở trên cao, đang chứng minh sự gia trì của hành giả trong thánh tướng Bổn tôn đến tất cả chúng sanh. Sau đó, toàn thân Phật A-mi-đà biến thành ánh sáng hoàng kim, phóng xuất về trụ xứ Tây phương Cực lạc. Hành giả an trú trong trạng thái đó cho đến khi không còn tập trung được nữa.

3. Phương tiện thứ ba

Hành giả bắt ấn xả thiền rồi đọc kệ hồi hướng:

“Nguyện đem công đức này.

Hướng về khắp tất cả.

Đệ tửchúng sanh.

Đều trọn thành Phật đạo.”

Đạo sư Dilgo Khyentse dạy rằng:

“Khi công đức được hồi hướng, quả tốt của công đức sẽ gia tăng liên tục thay vì tàn lụi dần, như chất men theo thời gian sẽ nảy nở thêm. Khi hành giả hồi hướng, nên ý thức rõ ràng về việc hồi hướng của mình, giống như đang dâng lễ vật cho từng chúng sanh một. Không nên nghĩ rằng công đức được chia ra cho mọi chúng sinh, mà là mọi chúng sanh đều sẽ nhận được trọn vẹn công đức đó...”

Tóm lại, mọi hoạt động tâm linh dựa trên ba phương tiện tối thượng này, thì dù một việc nhỏ nhặt cũng sẽ mang lại cho hành giả những lợi ích vô cùng. Đây là nền móng giúp cho hành giả xây dựng lâu đài Giác ngộCực lạc Tây phương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26237)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21637)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23417)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14743)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12956)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19854)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13825)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22781)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11992)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12430)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24063)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13739)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21096)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25687)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19261)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23252)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21409)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18342)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14007)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15475)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17890)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21983)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17561)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28083)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14884)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17163)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22636)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28248)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14027)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17069)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22323)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14180)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21496)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20836)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28544)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15071)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26611)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19302)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31621)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21027)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26232)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23600)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25646)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25419)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19740)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18497)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17805)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19073)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant