Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương năm

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6003)
Chương năm

Á CHÂU HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG NĂM

Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức đậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự gì sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đã qua của mình chỉ là những bước đầu trên con đường sắp tới.

Trong khi chúng tôi ngồi tụ họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người mà chúng tôi đã từng gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xã giao, người ấy nói:

– Các bạn đã đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đã cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Vì biết rằng các bạn sẽ ở lại đến tháng tư hay tháng năm nên tôi đến để mời các bạn viếng thăm một ngôi đền đục trong núi đá ở bên ngoài làng này.

Chúng tôi được cho biết rằng người ta đã phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng này. Những bọn cướp này đôi khi xuống tận làng mạc, thôn ấp để ăn hàng. Người khách ấy nói:

– Làng này cũng đã bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đã tránh khỏi tai họa nhờ trú ẩn trong ngôi đền. Các vị chân sư đã bảo vệ ngôi đền này theo yêu cầu của dân làng và để gìn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài xem là vô giá. Từ khi có sự bảo vệ của các ngài, những vụ cướp bóc đã chấm dứt, dân làng không còn bị tấn công bất ngờ và mọi người đều sống bình yên. Người ta nói rằng một số tài liệu nói trên đã có từ những thời đại văn minh đầu tiên của con người. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals, cũng gọi là các “huynh đệ thánh thiện”, đã xuất hiện từng đến Miến Điện để dạy dỗ dìu dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh kinh Phệ-đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Còn những Thánh kinh Phệ-đà thì không ai có thể xác quyết được là có từ bao giờ, chỉ biết là rất sớm. Không phải tất cả tài liệu văn kiện của ngôi đền này đều là những bản chánh, vì nhiều tài liệu trong số đó đã được sao chép lại từ một nguyên bản cùng lúc với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được mang đến đây để được gìn giữ an toàn. Có rất ít khách đến viếng thăm ngôi đền này, hầu hết là những vị chân sư đã đạt được ít nhiều kết quả tu tập trên con đường giác ngộ tâm linh.

Người khách ấy còn nói tiếp:

– Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ đã thuộc về dĩ vãng, không còn trở lại được nữa, trừ phi là ở trong tư tưởng, do những ký ức còn lưu lại về mọi sự sung sướng, đau buồn hay những công trình đã thực hiện. Một trang trong quyển lịch đời của chúng ta đã được xé bỏ. Trái lại, theo cách nhìn của chúng tôi thì khác hẳn. Chúng tôi xem năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ nối thêm vào những thành quả đã thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công việc chưa thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp sẽ làm cho chúng tôi trở nên sáng suốt hơn, tỉnh giác hơn và mở rộng lòng thương yêu hơn. Có thể các bạn sẽ nghĩ rằng: “Làm sao để được như vậy?” Nhưng câu trả lời của chúng tôi sẽ là: “Hãy tự mình tìm ra những kết luận của mình, hãy chọn lựa cách sống riêng của mình.”

Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:

Chúng tôi rất mong sẽ được nhìn thấy và hiểu biết.

Người khách lại nói tiếp:

– Kể từ bây giờ sẽ có những bài học đúng đắn cho những kẻ không nhìn thấy, không hiểu biết, không hiểu ý nghĩa và mục đích của một đời sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, sống cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.

Kế đó, ông ta lại nói với một giọng ít nghiêm trang hơn:

– Các bạn đã bày tỏ ý muốn được nhìn thấy và hiểu biết. Nhìn thấy các bạn tụ họp như thế này, tôi chợt nghĩ đến một câu nói trong Kinh Thánh: “Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, thì Ta luôn có mặt một bên họ.”

Một cuộc đời tu hành khổ hạnh, xa lánh thế tục để ẩn mình trong những tu viện hẻo lánh không phải là một điều thực sự cần thiết. Một cuộc đời như thế không hẳn đã có thể giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và đạt đến trí tuệ sáng suốt chân chính.

Tuy vậy những quan niệm đam mê vật chấtsi mê từ lâu đời luôn ảnh hưởng đến đời sống của con người. Con người đã đi xa dần những chân lý của của sự sống, chính vì luôn muốn vun đắp cho cái bản ngã nhỏ hẹp của mình. Họ dần dần chìm đắm trong những quan niệm tà kiến sai lầmcuối cùng không khỏi rơi vào một trong những ảnh hưởng của các tà giáo, bàng môn tả đạo.

Cuộc nói chuyện chấm dứtchúng tôi lên đường đến viếng thăm ngôi đền. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các bậc chân sư đã đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc trò chuyện, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống và người khách đã đưa chúng tôi đến đây lại nói tiếp:

– Hầu hết những người Âu Mỹ đều tôn sùng đức Jesus như một thần tượng, và đó là điều hết sức sai lầm. Lẽ ra họ phải xem ngài như sự biểu hiện của một lý tưởng, thay vì tôn thờ ngài như một thần tượng. Đó là hai việc hoàn toàn khác nhau. Thay vì tạo ra những hình tượng bằng gỗ đá để tôn thờ, sùng bái, người ta nên xem cuộc đời ngài như một tấm gương sống độngcố gắng sống theo như ngài. Trong ý nghĩa đó thì họ sẽ thấy rằng ngay cả đến nay đức Jesus vẫn đang hiện hữu trong mỗi con người, và không hề chết đi trong cái thể xác đã từng bị đóng đinh trên cây Thập tự. Theo cách hiểu đó thì ngài vẫn luôn hiện hữu trong tâm tưởng của mỗi một con người, chừng nào mà họ vẫn còn thấy có gì đó để học hỏi và noi theo trong tấm gương sống động của đời ngài. Sự lầm lạc to lớn của đa số người là họ nghĩ rằng cuộc đời đức Jesus đã kết liễu trong tai nạn đau khổ và chết đi trên cây thánh giá. Và vì đối với họ ngài chỉ là một người đã chết, nên họ dễ dàng lãng quên ngài. Họ lãng quên ngài ngay cả khi vẫn luôn quỳ lạy và cầu nguyện với ngài mỗi ngày như một con chiên ngoan đạo!

Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó có một thứ ánh sáng mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ bỗng tỏa chiếu khắp gian phòng. Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không được rõ ràng. Sau khi giọng nói ấy làm cho chúng tôi chú ý và tất cả những tư tưởng của chúng tôi đều hướng về đó thì nó trở nên hoàn toàn rõ rệt và vang rền thành những âm vang trong sáng và thánh thót như tiếng chuông ngân. Một người trong chúng tôi lên tiếng hỏi:

– Ai nói đó?

Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:

– Hãy im lặng, đó là đó lời dạy của một đấng giác ngộ.

Khi đó giọng nói lại tiếp tụcchúng tôi bắt đầu nghe rõ từng tiếng:

– Khi ta nói “Ta là là chân lý, ta là sự sống,” ta không hề có ý nói đến cái bản ngã nhỏ hẹp mà người đời gọi là “của ta”; rằng chỉ có duy nhất mình ta mới là ánh sáng, là chân thật và đáng được tôn thờ. Ta chỉ muốn nói lên một sự thật với toàn thể nhân loại rằng, chân lý vốn luôn hiện hữu trong mỗi con người, bởi vì mỗi con người luôn sẵn có bản tâm tròn đầy và sáng suốt. Hiểu rõ được bản tâm ấy là điều kiện trước tiên để đạt đến một tâm thức tĩnh lặng, sáng suốtgiải thoát.

Bằng cách sống cuộc đời thánh thiện với một tâm hồn hồn nhiên, chân thậtnhẫn nhục, mỗi con người đều có thể trở nên một nhân vật thiêng liêng xứng đáng cho người khác tôn sùng. Nhưng sự tôn sùng một nhân vật thánh thiện không mang lại cho người ta bất cứ lợi ích nào. Người ta cần phải biết noi theo và giữ gìn cái lý tưởng của người ấy, tự mình thực hiện cái chân lý trọn vẹn giống như người ấy, và sau cùng đạt được chính cái mục đích mà người ấy đã đạt đến. Chỉ có như vậy thì tự thân mỗi người mới nhận ra được chân lý và tự mình đạt tới sự giải thoát chân thật. Như vậy đó, chân lý chưa bao giờ rời xa con người, chỉ có con người mê muội nên mới càng lúc càng rời xa chân lý.

Không có bất cứ sự mầu nhiệm hay bí ẩn nào bao quanh những giáo lý mà người đời gọi là siêu việt, vì thật ra tất cả chỉ là sự biểu hiện vô cùng đơn giản của lòng thương yêu: thương yêu tất cả nhân loạithương yêu đến cả muôn loài.

Giọng nói ngưng lại, và các vị chân sư bỗng nhiên xuất hiện đầy khắp trong ngôi đền. Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo. Đó là một khung cảnh rất thật. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian phòng lúc ấychúng tôi đã nói chuyện với nhiều người trong số các chân sư. Chúng tôi đã bắt tay chào hỏi và thậm chí đã chụp ảnh các vị. Các vị đã hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đã vây quanh các vị. Sự khác biệt duy nhất giữa các vị với chúng tôi là các vị được bao phủ quanh mình bằng một thứ hào quang đặc biệt. Hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp phòng. Thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lànhtỏa ra chung quanh một sự nhiệt thành và ấm áp của tình thương.

Sau khi các vị chân sư đã từ biệt ra đi, gian phòng dường như vẫn còn giữ lại một phần sự ấm áp và ánh sáng của các ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào phòng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy.

Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi hội họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:

– Gian phòng này thật là kỳ diệu!

Anh ta đã biểu lộ đúng cái cảm tưởng chung của tất cả chúng tôi, nên không ai nói thêm điều gì nữa.

Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian phòng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.

Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị chân sư đều bước ra khỏi phòng rồi mới đứng dậy ra về. Chúng tôi theo cầu thang đi xuống phòng dưới và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường.

Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ. Tại đây chúng tôi còn ngồi nói chuyện đến tận nửa đêm. Sau khi các vị quan khách đã ra về, chúng tôi tụ họp quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cám ơn về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:

– Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đã hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ còn thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!

Dường như bạn tôi đã thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mọi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói gì về những cảm nghĩ của mình và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy nơi sự tưởng tượng của độc giả.

Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra thêm một lời nào nữa. Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đã mở ra ngay trước mắt mình. Chúng tôi lui về phòng riêng trong đêm đó với ý nghĩ rằng mình đã trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.

lll

Sáng ngày hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng những cuộc tụ họp của các chân sư nơi ngôi đền thiêng đó không phải là một điều bất thường. Bà nói rằng bà vẫn thường đến tham dự cùng với các bạn hữu của bà.

Ngày hôm đó, bà chủ nhà và hai phụ nữ khác quyết định đi đến ngôi đền với chúng tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, có hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị bệnh và nhờ bà đến chữa trị. Chúng tôi bỏ dở lộ trình và đi theo hai người đàn ông đến nhà đứa trẻ, thì thấy một em bé thật sự đang ốm nặng.

Bà chủ nhà của chúng tôi liền tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé bế em lên đặt vào trong vòng tay của bà. Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn nhó lại trong một lúc. Sau vài phút, nó ngủ thiếp đi. Công việc chữa bệnh đơn giản chỉ có thế! Bà chủ nhà trả em bé lại cho người mẹ và chúng tôi ra đi đến ngôi đền.

Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều phòng trong ngôi đền. Trong lúc nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đàn ông đã đi theo chúng tôi hồi sớm này là con cháu của một trong các bậc chân sư có gương mặt còn trẻ mà chúng tôi đã gặp tại ngôi làng cũ, nơi trú ngụ của Thánh Jean Baptiste ngày xưa. Chúng tôi đã nhắc đến vị chân sư ấy, là tác giả của các bản văn kiện cổ nói về thánh Jean.

Trong khi chúng tôi trở lại gian phòng thứ nhất, vị trưởng nhóm của chúng tôi hỏi rằng, một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng. Bà chủ nhà đáp rằng, mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một hình thức toàn vẹn đều sẽ được thực hiện. Bà nói thêm rằng, sự mong ước là một hình thức cầu nguyện, và một hình thức cầu nguyện toàn vẹn sẽ luôn luôn được đáp ứng. Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. Bà chủ nhà nói tiếp:

Định luật ấy có thể phát biểu như thế này: Lời cầu nguyện được đáp ứng tùy theo mức độ của đức tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều gì khi bạn cầu nguyện, bạn hãy tin chắc rằng bạn đã nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có. Nếu chúng ta biết chắc rằng những gì ta cầu nguyện đã được đạt đến, chúng ta cũng sẽ biết rằng chúng ta đã hành động một cách chân thậtđúng đắn. Và khi điều mong ước được thực hiện, chúng ta biết rằng định luật ấy đã ứng nghiệm. Còn nếu điều ta cầu nguyện không được đáp ứng thì ta biết rằng ta đã cầu nguyện không đúng cách. Lỗi ấy không phải nơi sự cầu nguyện, mà ở nơi cách thức cầu nguyện của chúng ta.

Bây giờ, bạn hãy đi sâu vào chính tâm hồn bạn, không thành kiến, không sợ hãi và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự dobiết ơn, và biết rằng những gì bạn cần dùng, những gì bạn cầu mong, bạn đã được rồi đấy. Bí quyết ở đây là sự nâng tâm hồn, đạt đến trạng thái tâm thức hòa nhập với nhịp sống của toàn vũ trụ, nghĩa là không còn bị trói buộc trong cái bản ngã nhỏ nhoi, hèn kém mà người đời vẫn luôn gọi là “của ta”. Với trạng thái tâm thức này, mọi tư tưởng đều trở nên thuần khiết và mạnh mẽ, không còn chịu sự chi phối, lay động của bất cứ yếu tố ngoại cảnh nào, cho dù đó có là sự chống đối của toàn thể thế giới. Chính sức mạnh tinh thần của những tư tưởng thuần khiết và mạnh mẽ vô biên này sẽ giúp bạn đạt được một cách chắc chắn những điều mà bạn cầu nguyện.

lll

Trong suốt hai tháng trường sau đó, chúng tôi miệt mài nghiên cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa được xếp thành hàng trong một gian phòng kín của ngôi đền. Những bia đá này có khắc cổ tự và những hình biểu tượng hàm súc nhiều ý nghĩa thâm sâu. Một người bạn già tên là Chander Sen đi theo chúng tôigiảng giải cho chúng tôi nghe những ý nghĩa của các bia đá cổ.

Một ngày đầu tháng ba, như thường lệ chúng tôi đến gian phòng nói trên và tiếp tục đắm chìm trong công việc nghiên cứu. Chúng tôi đều thắc mắc là không thấy bóng dáng Chander Sen đâu cả, cho dù đã quá giờ mà ông lão vẫn đến đây như thường lệ. Bỗng chúng tôi nghe có tiếng người vang lên:

– Chào các bạn!

Tiếng chào này kéo chúng tôi ra khỏi sự chú ý vào công việc đang làm. Chúng tôi quay lại phía cửa vào và nhìn thấy đức Tuệ Minh. Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số!

Trước khi chúng tôi kịp định tĩnh tinh thần, đức Tuệ Minh đã bước tới gần và bắt tay chúng tôi. Ngài nói với giọng thân mật:

– Các bạn không phải chờ đợi Chander Sen nữa. Ông ta có việc và phải đi vắng khỏi đây trong ít lâu. Nhưng khi trở về, có lẽ ông ta sẽ giúp các bạn được nhiều việc hơn. Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang trò chuyện thì một người bạn tôi bước đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài và nói hình như có nhiều người lạ mặt đã vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đều đi ra để nhìn xem. Thật vậy, quả là một điều rất hiếm xảy ra khi thấy những người khách lạ đi bộ đến làng, vì lúc ấy là giữa mùa đông. Chúng tôi liền kéo nhau về làng để xem chuyện gì đã xảy ra.

Khi về đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có mang theo một người đi lạc trước đó ba ngày trong một cơn bão tuyết và bị cóng lạnh đến mức hầu như không còn cử động được nữa. Đức Tuệ Minh bước đến gần, đặt một bàn tay trên đầu người ấy và đứng yên trong một lúc. Dường như có một luồng hơi ấm kỳ diệu đang tỏa ra quanh ngài, và luồng hơi ấm đó cũng theo bàn tay ngài mà nhanh chóng truyền sang cho nạn nhân. Trong chốc lát, người ấy hất tấm chăn phủ ra và đứng dậy. Nhiều người trong số các bạn anh ta đứng trố mắt nhìn một cách vô cùng kinh ngạc. Một vài người khác bỏ chạy vì hoảng sợ. Trong khi đó, nạn nhân vừa được cứu chữa có vẻ hoang mang, ngơ ngác. Dường như anh ta không hiểu được chuyện gì đã xảy ra cho chính bản thân mình.

Chúng tôi quay trở lại nhà trọ với một tâm trạng khó tả, và chúng tôi đã thức đến nửa đêm hôm đó để bàn luận về những việc vừa xảy ra.

Trong khi bàn luận, một người bạn tôi nêu câu hỏi rằng địa ngục ở đâu và có thật có những ác quỉ hay không? Đức Tuệ Minh trả lời dường như không cần suy nghĩ:

Địa ngục và ác quỉ không có một nơi chốn nào nhất định, mà chỉ hiện hữu trong tư tưởng si mê của người đời. Những thứ ấy luôn xuất hiện đúng ở nơi mà con người đặt để cho chúng. Các bạn đều là những người có học thức, vậy các bạn có thể nào tìm thấy chăng một vị trí địa dư xác định nào cho địa ngục và ác quỉ trên quả địa cầu này? Và nếu như chúng ta đã lục soát khắp cả vũ trụ mà vẫn không tìm thấy bất cứ nơi chốn nào là địa ngục, là chỗ trú ẩn của ác quỉ, vậy chúng ta buộc phải nhìn nhận rằng địa ngục và ác quỉ chỉ xuất hiện ở những chỗ nào có con người và nó chỉ có những quyền năng mà chính con người đã gán cho nó. Các nhà phù thủy hay các pháp sư thường nói rằng họ có thể xua đuổi tà ma ra khỏi một con người nào đó, nhưng thật ra không hề có bất cứ một loại tà ma quỉ quái nào nhập vào con người, trừ phi chính người ấy đã tự ý mong muốn một chuyện như vậy. Sự hiện hữuquyền năng duy nhất của cái gọi là tà ma chính là cái quyền năngcon người đã tưởng tượng ra và gán ghép cho chúng.

Một lúc sau, câu chuyện bắt đầu hướng đến vấn đề sự hiện hữu của Thượng đế, và một người bạn tôi nêu câu hỏi:

– Như vậy, thật ra thì Thượng đế có thật hay không, và nếu có thì bản chất thật sự của ngài là như thế nào?

Đức Tuệ Minh đáp:

– Tôi có thể hiểu được tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Thật ra, bạn đang muốn xác định rõ ràng một vấn đề mà suốt nhiều thế kỷ qua con người vẫn chưa từng xác định được một cách rõ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái ngược. Người ta chỉ biết tìm hiểu mọi vấn đề thông qua các danh từ mà chính họ đã đặt ra để gọi tên nó. Người ta suy diễn một sự việc để hình thành khái niệm tương ứng với sự việc đó, rồi đặt ra một tên gọi cho khái niệm vừa hình thành. Nhưng ngay khi tên gọi vừa được xác định thì người ta lại quên mất đi bản chất thật sự của vấn đề, mà chỉ nhận hiểu vấn đề ấy bằng vào cái tên gọi rỗng tuếch mà họ vừa đặt ra cho nó. Thật là buồn cười, phải không các bạn? Nhưng chính cái vòng luẩn quẩn này đã trói chặt con người trong bao nhiêu thế kỷ qua, đã dựng lên một bức rào cản kiên cố ngăn cách giữa con ngườithực tại. Con người đã tự mình che phủ thực tại bằng chính những khái niệm và tên gọi do họ đặt ra, để rồi không bao giờ còn có khả năng tiếp xúc thực sự với thực tại đang hiện hữu đó. Bằng cách đó, con người hiện nay thực sự có thể hiểu được những gì về Thượng đế? Chẳng qua chỉ là một tên gọi do họ đặt ra mà thôi! Và nếu bạn đang nói đến Thượng đế theo cách này, thì sự hiện hữu của một Thượng đế như thế liệu có quan hệ gì đến cuộc sống của chúng ta? Thật ra, nếu chúng ta có thể vất bỏ đi tất cả những khái niệm và định kiến chật hẹp đang chất đầy trong tâm trí, chúng ta sẽ hoàn toàn có khả năng tiếp xúc được với sự sống quanh mình một cách giản dị và chuẩn xác. Khi đó, chúng ta sẽ nhận ra được rằng có một nguyên lý chung luôn tác động, ảnh hưởng đến vạn vật quanh ta. Nguyên lý đó ngự trị khắp nơi trong vũ trụ, trong mọi sinh vật cũng như mọi hiện tượng. Trong mỗi sinh vật, nguyên lý ấy được biểu hiện thành cái gọi là tinh thần, nên tinh thần ấy vốn là toàn năng, toàn trí và toàn thông. Nhưng con người không nhận biết được điều này! Họ tự mình tách rời ra khỏi cái nguyên lý chung của toàn thể, ôm giữ lấy một phần nhỏ nhoi và gọi đó là “của mình”, rồi trong khi cố tìm mọi cách để bảo vệ, vun bồi cho cái bản ngã đó, họ liên tục gây tổn hại đến vô số những sinh linh khác. Vì thế, họ ngày càng trở nên xa cách với bản thể chân thật của chính mình. Nếu vì thói quen mà các bạn muốn đặt ra một tên gọi, thì chính phần tâm thức toàn năng, toàn trí và toàn thông mà tôi vừa nói đến đó chính là cái mà bạn nên gọi là Thượng đế. Và Thượng đế hiểu theo cách này thì quả thật là vẫn luôn hiện hữu khắp quanh ta và ngay trong lòng chúng ta. Bản chất của một Thượng đế như thế là gì ư? Đó chính là sự sống! Sự sống vốn là trường cửu, bất biến, nên đó chính là Thượng đế trong vũ trụ này. Bạn có thể nhìn thấy tôi chết đi, mọi người khác quanh bạn chết đi, nhưng đó thật ra không phải là sự chấm dứt của đời sống, mà chỉ là sự chuyển tiếp của sự sống từ một hình thái này sang một hình thái khác mà thôi. Từ thuở khai thiên lập địa đến nay, sự sống chưa từng chấm dứt! Vậy thì cái chết liệu có ý nghĩanếu không phải chỉ là sự đe dọa đối với những tâm thức nhỏ nhen, hạn hẹp? Khi bạn hiểu Thượng đế theo nghĩa này, thì Thượng đế chính là nguyên nhân trực tiếp của tất cả mọi sự tốt lành ở chung quanh chúng ta. Cũng có thể nói là nguyên nhân của mọi sự sống mà ta nhìn thấy quanh ta; là nguồn gốc của tình thương yêu bao la rộng khắp, có khả năng duy trì và hợp nhất tất cả mọi hình thái khác nhau của đời sống. Như vậy, Thượng đế là một nguyên lý vi diệu chứ không phải là một cá thể riêng biệt, không phải là một nhân vật riêng rẽ có sự hiện hữu tách biệt với mỗi người trong chúng ta. Sự tôn sùng Thượng đế như một cá nhân siêu việt chỉ là kết quả của một quan niệm sai lầm nảy sinh trong trí óc của những kẻ ngu dốt. Và điều ấy cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể thấy trên thế gian này.

Đức Tuệ Minh ngừng một lúc, và một người bạn tôi thưa hỏi:

– Thưa ngài, nếu không có một đấng Thượng đế toàn năng hiện hữu một cách tách biệt và khách quan để thưởng phạt con người, thì những việc làm tốt lành hay xấu ác của mỗi con người sẽ có ý nghĩa như thế nào? Người ta sẽ nhận được gì khi làm điều thiện, và do đâu mà phải chịu trừng phạt khi làm việc xấu ác?

Đức Tuệ Minh nở một nụ cười tươi sáng và nói:

– Cám ơn về câu hỏi của bạn. Tôi biết là có rất nhiều người trong nhân loại vẫn luôn thắc mắc tương tự như vậy. Và chính do nơi những người này mà có sự hình thành của cái gọi là một “đấng toàn năng thưởng phạt”. Những người này cần thấy được – cho dù trong thực tế là không bao giờ có – một sự thưởng phạt cụ thể nào đó, do một ai đó đứng ra làm chủ cho họ, vì bản thân họ không bao giờ có đủ đức tin vào chính mình. Và trong một chừng mực nào đó thì việc dựng lên một “đấng toàn năng thưởng phạt” như vậy – cho dù không thật có – là hết sức cần thiết để giữ cho một phần lớn trong nhân loại không sa đọa vào những điều xấu ác, để đưa họ đến gần hơn với con đường hiền thiện, và như vậy cũng có nghĩa là cứu thoát họ trở về với cội nguồn của sự sống. Phải, tôi có thể nói là chỉ có một con đường đưa đến sự toàn thiện mới cứu thoát được con người ra khỏi những khổ đau truyền kiếp mà họ đang chịu đựng. Con người sinh ra từ sự toàn thiện và phải trở về với sự toàn thiện nếu như không muốn chìm đắm mãi mãi trong sự si mêđau khổ.

Nguyên lý của sự sống là phổ quát và bao trùm khắp vũ trụ, nên tất cả mọi con người đều hòa nhập thành một thể thống nhất trong nguyên lý mầu nhiệm vô biên ấy... Vì thế, các bạn hãy nhận thức một cách đúng đắn rằng bản thân mình là một phần tử không tách rời của sự sống vô biên. Các bạn hãy chấp nhận tự nguyện hy sinh vì sự lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hãy tập làm điều lành mà không cần suy nghĩ, tính toán đến hậu quả. Các bạn hãy tập từ bỏ mọi ham muốn nhỏ nhen và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất không thường tồn của trần gian. Hãy làm như vậy một cách thoải máitự do. Đó không phải là một sự quên mình hay cam tâm sống cuộc đời bần cùng khắc khổ, bởi vì bạn càng cho ra bao nhiêu những gì bạn có thì bạn sẽ nhận thấy rằng bạn lại càng có được nhiều hơn để cho ra. Đôi khi, dường như bạn rơi vào những trường hợp phải cho đi tất cả, thậm chí đến cả sự sống của mình. Nhưng nếu bạn vượt qua được thử thách đó, bạn sẽ thấy rằng những ai chỉ muốn duy trì sự sống của chính mình sẽ sớm đánh mất nó. Và bạn sẽ vui mừngnhận thấy rằng sự sống mà bạn vui lòng hy sinh cho kẻ khác lại chính là sự sống mà bạn luôn gìn giữ được.

Khi đó bạn sẽ biết rằng nhận lãnh có nghĩa là cho ra một cách rộng rãi, phóng khoáng. Ngay cả khi bạn phải hy sinh sự sống hữu hình hữu hoại này, thì một đời sống cao cả hơn sẽ xuất hiện. Và một đời sống như thế là một sự thành tựu lớn lao không phải cho riêng mình, mà là cho tất cả. Bạn nuôi dưỡng lòng thương yêu để cảm thông với những khổ đau, những nhu cầu cấp bách của thế gian. Khi bạn làm được điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ người khác một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể tự mình mang đến nguồn ân huệ thiêng liêng cho những tâm hồn khát khao chân lý, và nguồn ân huệ ấy sẽ không bao giờ cạn kiệt. Nếu được, bạn hãy sử dụng khả năng thuyết giảng đạo lý để mang lại nguồn an ủi cho những kẻ khổ đau tìm đến với bạn, mang lại sự bình an và nguồn hy vọng cho những kẻ bệnh tật, những kẻ mệt mỏi chán nản trong cuộc sống, và tất cả những ai đang bị những đau khổ của cuộc đời đè nặng trong tâm hồn. Bạn có thể thức tỉnh những kẻ mù quáng, những tâm hồn sa đọa, giúp họ cảm thấy rằng bao giờ cũng luôn sẵn có một con đường tốt đẹp để họ vươn đến và vững bước đi lên...

Kế đó, đức Tuệ Minh nói rằng ngài phải đến nhà một huynh đệ khác trong làng ngay chiều hôm đó. Tất cả chúng tôi đều đứng dậy tiễn ngài. Đức Tuệ Minh ban ân huệ cho tất cả chúng tôi và rời khỏi gian phòng cùng với hai người khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14301)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14349)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13268)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14630)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25224)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27860)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26335)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17224)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17128)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24893)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21948)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21719)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16778)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18768)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14773)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16606)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18010)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12917)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12695)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13884)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28008)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27171)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14344)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20941)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28664)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14731)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13281)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16442)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27224)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12017)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16071)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21465)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant