Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Niết bàn là gì

13 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5093)
II. Niết bàn là gì

ĐẠO LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

II. NIẾT BÀN LÀ GÌ

Trong quyển “Pháp giáo nhà Phật”, tôi đã có giải về Niết-bàn, gom góp tư liệu trong nhiều kinh sách. Về phần Niết-bàn trong sách này, tôi xin trình bày đôi chỗ cần thiết, chứ không trích dẫn các tư liệu nữa.

Niết-bàn, cảnh hoàn toàn sung sướng, an lạc đời đời, cảnh cao vời, cảnh tuyệt đích của người tu hành đắc đạo. Những nhà tu trì có công hạnh, tham thiền rất sâu về Tứ diệu đế, đủ tự giải thoát ra ngoài Tam giới, bèn chứng quả A-la-hán và đắc ngay Niết-bàn trong khi sanh tiền. Còn những ai đắc quả thứ ba, hoặc là người cố sức tưởng Phật lắm thì khi thác cũng đến cõi Niết-bàn, được gần chư Phật. Đức Thích-ca Mâu-ni từng giảng công đức cảnh Niết-bàn, những sự tốt đẹp, thanh tịnh nơi cõi Niết-bàn. Mấy ông thánh xưa đắc quả, cũng mặc tình thường cảnh Niết-bàn, thường nói ra với đại chúng. Đức Phậtthánh chúng đều nhận có Niết-bàn; các ngài hạnh đức đủ đầy, hoàn toàn trong sạch, thì các ngài đâu có nói sai. Vậy ta chớ có phân vân mà khi nói có lúc nói không, ta hãy tin lời của Phật thánh mà nhận rằng có một cái thế giới rất trong sạch dành riêng cho các bạn lành.

Những ai giữ mình tinh khiết, bỏ sự đời, chẳng màng công danh phú quí ở dương thế này, mà muốn qua cảnh tịnh của chư Phật thì thế nào cũng qua được. Xưa nay, biết bao người thành A-la-hán, đắc đạo, nhập Niết-bàn, số ấy nhiều hơn số cát cả trăm, cả ngàn sông Hằng!

Niết-bàn, ai cũng biết là cảnh tuyệt tốt, tuyệt lành; còn tả rõ ra thì không ai tả được. Chư Phật và chư thánh chỉ có nói sơ là nơi an lạc vô cùng mà thôi. Có chứng từ quả A-la-hán, bậc thứ tư sắp lên, mới thấu nỗi Niết-bàn, vì đó là những hạng đắc nhập Niết-bàn.

Song bậc A-la-hán chưa được Niết-bàn trọn vẹn. Trong những năm đầu mới truyền đạo, vì phương tiện Phật tạm dạy Tiểu thừa, ngài khuyên học trò cố sức giải thoát để chứng tới quả A-la-hán, nhập Niết-bàn. Nhiều vị đệ tử chuyên cần tu tập, tham thiềntinh tấn, đắc quả A-la-hán. Có nhiều vị, khi thành A-la-hán, không muốn ở lại cõi trần. Các ngài mới tịch vào Niết-bàn.

Về sau, Phật mở rộng các pháp môn, giảng ra Đại thừa, Nhất thừa. Ngài khuyên chư vị A-la-hán chớ tham chấp lấy Niết-bàn của A-la-hán, và hãy mong cầu Niết-bàn của chư Phật. Ngài dạy rằng Niết-bàn của A-la-hán và Duyên giác là Niết-bàn tạm, một chỗ nghỉ ngơi của hạng người đã mỏi mệt sau khi cố sức tu hành. Ngài chỉ rõ cảnh Niết-bàn thật, Niết-bàn trọn vẹn ấy là Niết-bàn của chư Phật. Nghe theo ngài, chư đệ tử đắc A-la-hán không tham chấp Niết-bàn của A-la-hán, bèn hướng đến cảnh cao của Phật Như Lai sẽ hưởng Niết-bàn hoàn toàn của bậc Như Lai. Chư đệ tử ấy rất dõng mãnh, tin sâu lời Phật. Các ngài bèn tu hạnh Bồ-tát, các ngài vào thừa duy nhất tức là Phật thừa. Các ngài tự do, tự tại mà dạo khắp mười phương, ba cõi, tỷ như những gã trai tráng con nhà giàu nương mình trên cỗ xe đạp thắng bằng bò trắng to lớn, mà dạo chơi từ thành thị đến thôn quê, các ngài dùng mọi bề phương tiện hành đạo Bồ-tát, chờ ngày lên bậc Như Lai, Phật Thế Tôn. Vinh hạnh thay! Cao thượng thay! Công đức thay!

Trong bộ kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” mà tôi đã dịch và xuất bản, nơi phẩm bảy, nhân phân biệt Niết-bàn, Phật có dạy một ví dụ, tôi xin tóm lược ra dưới đây:

“Thuở xưa, có một đoàn bộ hành đi qua một đám rừng kia để đến cù lao châu báu. Có một tay chủ đoàn dắt đường là người biết rõ nẻo đi. Trong khi băng ngang đám rừng sâu, bọn bộ hành đều mệt chán, uể oải, bèn đồng nhau than van và đòi trở lại. Người chủ đoàn định dùng phương tiện để đối phó với họ. Người hóa phép biến ra một cảnh thị tứ trước mặt đoàn buôn. Người chỉ rằng: ‘Kìa, tới chợ búa, chúng ta hãy vào đó mà nghỉ, rồi sẽ tính.’ Đoàn bộ hành thấy cảnh phồn hoa náo nhiệt, người lại kẻ qua, thiên hạ lăng xăng thì họ bằng lòng lắm. Họ vào đó, tắm rửa, ăn uống nghỉ ngơi, chơi bời. Đến chừng người chủ đoàn thấy cả bọn khỏe khoắn, tươi tỉnh, phấn chấn lại rồi, người bèn biến mất cảnh thị tứ đi. Và người nói rằng: ‘Hôm trước, ta dùng phép thần thông mà hóa ra cảnh đền đài cho các ngươi đỡ mệt. Chớ ở đây toàn là rừng rú mà thôi. Bây giờ các ngươi khỏe rồi, hãy cố sức đi tới nữa. Cù lao châu báu không xa.’ Rồi người dắt đoàn bộ hành ấy đi tới nơi tới chốn.

“Đoàn bộ hành kia, tức là mấy vị đệ tửmệt mỏi nên ưa chịu cảnh Niết-bàn của A-la-hán. Niết-bàn của A-la-hán có khác nào cảnh thị tứ ở giữa rừng. Tức là cảnh tạm. Còn hòn châu báu, mục đích của đoàn buôn, mới là cảnh Niết-bàn chân thật của chư Phật, mục đích của những người tu hành tinh tấn.”

Theo Đại thừa, người ta không tham chấp Niết-bàn của A-la-hán mà hướng đến Niết-bàn của chư Phật. Cho nên các ngài thực hành đạo hạnh Bồ-tát trong bao nhiêu đời chẳng kể, thường từ bi bố thí, thí tài vật, thí thân mạng, thí pháp lý. Các ngài chuyên cần giữ tịnh giới, khổ hạnh đúng mức, xả thânchúng sanh, nhẫn nhục vô cùng, chịu sỉ ố, thóa mạ, đánh đập, chịu lao tù, chịu oan ức, và cam lãnh các tai ương nạn ách để hóa độ chúng sanh. Các ngài tinh tấn hết sức, chẳng hề giải đãi bỏ nẻo lành. Các ngài hằng suy xét, thiền định, nhập phép Tam-muội bất động, hàng trăm năm ngồi yên một chỗ, cho đến chim chóc làm tổ trên đầu, cây cối bao phủ trên mình. Các ngài tu đắc trí huệ vô cùng vô tận, trí huệ thông suốt, minh mẫn hơn hết. Như vậy đặng cầu quả Phật vì chúng sanh.

Những bậc ấy rất từ tâm. Các ngài cao thượng cho đến không màng nhập cảnh Niết-bàn, không đành vui hưởng nơi ấy. Cho nên thường giáng thế, hóa thân trong các hạng chúng sanh đặng tùy tiện mà độ họ quay về nẻo lành. Các ngài du hành đến các nơi, đi lại các cảnh giới, tiếp dẫn và cứu vớt những người có căn lành cội phúc trong cơn nguy khốn. Các ngài còn đi giải thoát cho những kẻ sám hối, ăn năn, mong nhờ sức từ bi của Phật.

Chúng ta đây, người học Phật, sao chúng ta lại không làm theo các ngài? Không nhiều cũng ít, ta hãy giữ lấy đức hạnh cứu giúp chúng sanh, đỡ khổ cho đời. Ít ra ta cũng tìm dịphộ trợ những kẻ đồng loại, đồng bào. Hay là sẵn lòng giúp đỡ những kẻ quanh ta, tùy theo sức của ta. Không nữa, ta cũng tiếp tay cho những người đồng đạo thọ trì pháp Phật như ta. Những ai ăn ở có hạnh và ra công với đời thì càng gần với cõi lành, Niết-bàn, cảnh Phật. Những hạng tạo ơn tác phước với đời, dẫu không mong cầu, cũng sẽ hưởng được cảnh phước lành, cảnh an lạc nơi thiên thượng.

Ở ngay cõi này, các ngài đã hòa nhã, thanh tịnh, an lạc rồi. Thì đối với các ngài, cõi này cũng là cõi tiên, cõi thánh, cõi Phật. Lại nữa, các ngài vì giúp đời mà sống, vì thương người xót vật mà sống, cố sức mà khuyên lơn, an ủi, khuyến khích, để cho chúng sanh ở cõi này trở nên thuần hậu, thảo thuận, thì đối với các ngài cảnh trần thế có khác gì cảnh Niết-bàn đâu?

Thật ra, nếu biết suy xét kỹ, cảnh trần thế cũng là cảnh Niết-bàn đó. Lắm người tuy sống giữa nhân gian, mà tạo ra được một cái cảnh ngộ thuần lạc, một bầu thế giới thanh bai, một cảnh xã hội giao tế êm đềm, nhã nhặn. Trong lòng tưởng Phật, niệm Phật, họ giao tiếp với những người hiền lương trung hiếu, họ đi lại với những người sống trong vòng hào quang của Phật, ăn ở với bà con phải thế, đối xử với chúng bạn nhu hòa; há không phải họ ở vào cảnh trong sạch đáng yêu sao?

Lắm người tin ở sức lành của mình, hòa cái sức lành ấy với tấm lòng từ bi của Phật, bèn đứng ra mà giúp người độ thế, đưa chúng sanh lên đường phong hóa, đạo đức; như vậy họ không phải thấy ra là một cảnh thuần túy đáng thích sao?

Lắm người tưởng nhớ Phật, chắc ý vào sự tiếp dẫn của đức A-di-đà, bèn vui vẻ, tỉnh táo mà sống đời. Trong sạch trong sự giao tiếp, hằng bố đức cho người mà chính mình không tạo ra nợ nần, không thiếu hụt ai, không để ai phiền trách; trong khi tươi tỉnh mà chờ ngày cuối cùng để về cảnh Phật, họ không phải tạm ở vào cảnh nhàn lạc đáng kính sao?

Lắm người phong lưu nhàn hạ, nhà cửa thì rộng mở rước mời, mà bước chân vào toàn là kẻ xuất gia mến đạo, người cư sĩ thâm nghiêm, hay là kẻ hiền lành tích đức, như vậy há không phải là họ ở vào cảnh sung sướng khoái lạc hay sao?

Những hạng người như vậy tuy ở đời này, mà cũng như ở cảnh Niết-bàn rồi vậy. Quanh mình toàn là người trì kinh, niệm Phật, gần mình toàn là người giữ gìn phong hóa đạo hạnh, mình tạo ra được một cái xã hội lành, quý biết bao!

Những ai ở đời này mà vững lòng, chắc ý, hiểu mình, tin Phật, ắt là không xa cảnh Niết-bàn vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13591)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13742)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22217)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21875)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27387)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17778)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12330)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23284)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28579)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25711)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22302)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13992)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13436)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22477)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26386)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18484)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18964)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27383)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28425)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21384)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14900)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19217)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15665)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13186)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14027)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11895)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12398)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13942)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13273)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31981)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13437)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13333)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21870)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11097)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant