Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Trí huệ

13 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4921)
6. Trí huệ

ĐẠO LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

IV. SÁU BA-LA-MẬT

6. Trí huệ

Cái đức cuối cùng và cao viễn này, vừa là một đức hạnh, vừa là kết quả của thiền định và của bốn đức trước hiệp lại. Thật vậy, người tu thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn để diệt cái tâm bủn xỉn, tà ác, nóng nảy, lười biếng, nên dễ mà tham thiền. Rồi người tu mới tham thiền, nhập định cho hết tán loạn, đắc Tam-muội, đặng mở thông trí huệ. Trí huệ tức là sáng suốt, thông minh, bác lãm, thấy xa, hiểu rộng, biết nhiều. Trí huệ tức là hết lầm, hết mê, hết vọng, hết bị lôi cuốn vào chốn thế cuộc, luân hồi, mà được tự do, tự tại, giải thoát ra ngoài Tam giới.

Ban sơ, muốn tạm giải thoát, người tu phải hành trì Giới, Định, Huệ. Nghĩa là giữ Giới cho dễ nhập Định; rồi có nhờ nhập Định mới phát Huệ; phát Huệ rồi thì thông minh, đắc đạo.

Kế đó, người tu cũng còn hành trì Giới, Định, Huệ nữa. Giới đây là giới hạnh để thành Bồ-tát. Người ta trì một giới hay nhiều giới trong mấy giới: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn. Nhờ trì giới hạnh đó, người ta nhập thiền định, Tam-muội và đắc trí huệ cao hơn.

Sau khi ấy, từ đời này tới đời kia, hết kiếp kia qua kiếp nọ, trải qua bao thế cuộc thay đổi, bại thành, người tu một lòng thọ trì không hủy phạm các giới hạnh Bồ-tát: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, với thiền định và trí huệ. Trì giới hạnh Bồ-tát để cứu độ chúng sanh; trải qua trăm ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên kiếp, Bồ-tát xả thân vì đạo. Sau rốt thì đắc trí huệ của Phật, sự sáng suốt hoàn toàn, sự hiểu thông tất cả.

Chẳng những đức trí huệ là cái kết quả của đức thứ năm, Thiền-na Ba-la-mật, mà trí huệ cũng là bố thí, cũng là trì giới, cũng là nhẫn nhục, cũng là tinh tấn và cũng là thiền định. Nó quan hệ với năm đức trên một cách chặt chẽ vậy.

Là vì, muốn thành tựu đức bố thí, mà chẳng bố thí pháp thì làm sao đắc hạnh Đàn Ba-la-mật? Muốn bố thí pháp, ắt phải có trí huệ. Vậy Bát-nhã Ba-la-mật cũng là Đàn Ba-la-mật, đức bố thí.

Muốn thành tựu đức trì giới, mà chẳng có tâm rộng lượng, sáng suốt; khư khư giữ việc nhỏ mà bỏ việc lớn; chẳng biết phương tiện độ sanh, thì làm sao đắc hạnh Thi-la Ba-la-mật? Đó chẳng qua là giới hạnh tiểu thừa mà thôi, chớ chẳng phải là Bát-nhã Ba-la-mật, trí huệ Đại thừa. Vậy Bát-nhã Ba-la-mật cũng là Thi-la Ba-la-mật.

Muốn thành tựu đức nhẫn nhục, mà lúc nào cũng chịu ép bức nhịn nhường, thì làm sao mà xiển dương nền Phật Pháp? Làm sao đắc hạnh Đại thừa Sằn-đề Ba-la-mật? Hồi đức Phật còn trụ thế, một hôm đến ngồi ở một cội cây trong rừng vắng. Ở đó, có một con quỷ tên là Khoáng dã, kéo binh tướng đến bắt Phật đặng ăn thịt, Phật liền hóa ra hình vị đại lực quỷ là vua trong loại quỷ thần. Khoáng dã quỷ lấy làm sợ sệt, té quỵ và bất tỉnh. Phật bèn hiện ra hình thật, thuyết pháp độ quỷ Khoáng dã qui y Phật, bỏ sự giết mạng người, lại theo hộ trợ chúng tăng và các nhà tu Phật. Lại có một lúc, vua A-xà- thế nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa, phục rượu cho con voi Hộ tài say và thả ra đặng chà đạp Phật. Voi xông lại định hại Phật. Bỗng Phật đưa thẳng hai cánh tay ra; từ nơi mỗi đầu ngón tay, hiện ra một con sư tử oai mãnh. Con voi thấy vậy sợ quá, hết say, hết hăng máu, sụp nằm sát trước chân Phật. Đức Thích Tôn liền vỗ về nó và thuyết pháp cho nó nghe. Vậy thì phương tiện, thần thông của Bát-nhã Ba-la-mật hằng phổ cập vào hạnh nhẫn nhục, cho nên Bát-nhã Ba-la-mật cũng là Sằn-đề Ba-la-mật.

Muốn thành tựu đức tinh tấn, Phật tử phải có sẵn đức trí huệ của Như Lai ở nơi mình để soi sáng mình, để dắt dẫn mình. Nhờ có cái chánh trí, cái đại trí để phổ cập vào, mình mới dễ tu hànhchứng đắc cái chánh tinh tấn, đại tinh tấn. Đó tỷ như người có sức mạnh, có can đảm và có nghị lực, trong khi đi đêm trên đường xa, có đèn đuốc khai thông cho mình. Như vậy, Bát-nhã Ba-la-mật cũng là Tỳ-lê-da Ba-la-mật.

Sau rốt, muốn thành tựu đức thiền định, mà chẳng có trí huệ chiếu soi, thì làm sao đắc Thiền Ba-la-mật? Nhân đó, nhà tu hành có thể mắc vào cảnh thiền hữu lậu, chớ chẳng vượt lên cảnh thiền vô lậu; có thể lầm theo tà định mà ngỡ là chánh định; rồi thì chấp trước, ngạo mạn, quay lộn trong chốn phiền não, luân hồi. Vả lại, nhờ có trí huệ, nhờ sự nghiên cứu huệ điển, nhờ ưa gần gũi bậc thiện tri thức cao kiến, người tu thiền mới biết chỗ chứng đắc của mình, mới có thể sửa sang và bổ khuyết sở tu sở chứng của mình. Vậy trí huệ Ba-la-mật cũng là Thiền Ba-la-mật.

Đối với người tu cầu trí huệ, có ba phương cách, ba duyên cớ do đó mà trí huệ phát sanh. Đó gọi là Tam Huệ: 1. Văn huệ, 2. Tư huệ, 3. Tu huệ.

1. Văn huệ là cái trí huệ phát sanh do sự nghe giảng kinh thuyết pháp. Như ông Xá-lỵ-phất, bậc trí huệ đệ nhất trong các đệ tử xuất gia của Phật, khi còn tu theo ngoại đạo, một hôm nhân thỉnh pháp với một vị tỳ-kheo là Át-bệ, nghe Át-bệ truyền cho một bài kệ bốn câu, liền tỉnh ngộ chỗ yếu lý và bỏ ngoại đạo. Bài tứ cú kệ ấy như sau:



Các pháp do nhân duyên mà sinh.

Các pháp do nhân duyên mà diệt.

Bậc thầy vĩ đại của tôi đây,

Thường giảng dạy các pháp như vậy.

Lại như đức Thích Tôn, sau khi lần lượt mở ra ba phương tiện, ba pháp môn để độ cho các nhà tu hành thành A-la-hán, thành Duyên giác, thành Bồ-tát, ngài bèn mở ra pháp môn thứ tư là pháp môn rốt ráo: với sự thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngài truyền bá cái thừa duy nhất, pháp môn tổng hợp, ngài ban bố cái Phật huệ cho đại chúng. Nghe được trí huệ của Phật, thấy được trí huệ của Phật, ai nấy đều quyết tinh tấn để đắc nhập trí huệ của Phật.

2. Tư huệtrí huệ phát sanh do sự suy xét. Biết bao nhà tu học thâu hoạch trí huệ nhờ phương thức này. Dầu đi, dầu đứng, dầu nằm, dầu ngồi, cho đến lúc ăn uống, ngủ nghỉ, người ta vẫn một lòng suy nghĩ. Nhờ vậy mà mau đắc lý, dứt nghi, giải quyết những vấn đề thắc mắc.

Ví như những người tu trì pháp môn niệm Phật. Bất kỳ giờ phút nào cũng niệm nơi tâm, cho nên mau đắc niệm Phật Tam-muội. Và một khi được niệm Phật Tam-muội thì được phước đứctrí huệ vô biên, đắc cái trí huệ Ba-la-mật.

Lại như các bậc thánh hiền xưa nay, từ đức Phật ta cho đến các vị hiền triết Đông Tây, thảy đều nhờ ở môn Tư huệ. Lắm khi các ngài đứng xem hoa nở, ngồi nghe suối reo, đón luồng gió mát, nhìn trăng sáng, mà tâm trí vẫn để trọn vào vấn đề đang tham cứu. Rồi thình lình sự phát minh, sự giác ngộ đến với các ngài!

3. Tu huệ là cái trí huệ phát sanh do sự tham thiền nhập định. Đó là cảnh người ngồi yên lặng mà tham cứu. Như đức Thích Tôn từng tu khổ hạnh sáu năm trời trên non Tuyết Lãnh. Ngài ngồi trầm tư mặc tưởng ngày này qua ngày kia, quên ăn uống và chẳng nghe biết mọi sự bên ngoài. Cho đến khi biết rằng mình sắp được cái trí huệ hoàn toàn, ngài còn phải ngồi thêm bảy tuần nữa nơi cội Bồ-đề, giữa cơn gió tuyết mùa đông. Mãi đến sáng ngày mồng tám tháng chạp, sự “Khoát nhiên Đại ngộ” mới đến với ngài, nhân đó ngài thành Phật, có cái trí huệ hoàn toàn.

Cái trí, cái huệ của Phật, của Bồ-tát và của các nhà thành đạo là món quý báu vô giá mà các ngài dùng để giúp mình và giúp đời. Có nó, người ta biết phân biệt việc tà, việc chánh, kẻ ác, người thiện; tà, ác thì người ta bỏ đi, chánh, thiện thì người ta thâu nhận. Và người ta khai thị sự phân biệt ấy cho những kẻ khác, tránh sự lầm lạc cho họ.

trí huệ, người ta biết từ ngọn cho tới gốc mỗi sự mỗi vật; biết từ sự, là chỗ phát hiện, cho tới lý, là chỗ tiềm tàng; nhân đó, tự mình dứt mê, lại còn dứt mê cho đời.

trí huệ, người ta hiểu rõ ràng những nguồn gốc, những nhân duyên gây ra phiền não, đau khổ, trụy lạc: những nguồn gốc ấy, những nhân duyên ấy nhiều khi dường như mơn trớn mình, dịu ngọt với mình; nhưng cái trí huệ xét ra chúng nó là bọn nghịch tặc giả làm thân thiện đó thôi. Nhờ vậy, tự mình hết tối, lại còn chiếu sáng cho đời.

trí huệ, người ta thông hiểu tất cả mọi sự mọi vật trong hoàn vũ vô cùng vô tận, từ quá khứ đến hiện tạivị lai; người ta biết rõ các môn học về đời và về đạo. Tức là khi thành Phật, được cái trí huệ hoàn toàn, người ta liền hiểu biết tất cả. Cho nên đối với bất kỳ một chúng sanh nào, Phật cũng làm Thầy được cả!

Vì vậy cho nên người ta dùng rất nhiều danh từ để tôn xưng Phật, để tỷ dụ với cái trí huệ của Phật, hay để xiển dương cái công dụng của trí huệ. Chẳng hạn như là:

Trí cự hay Huệ cự, tức là ngọn đuốc soi sáng cho chúng sanh đương ở trong nhà tối Tam giới, đương ở trong đêm dài vô minh.

Trí diệu, tức là môn phương tiện mầu nhiệm của Phật, mà người ta nghĩ không xiết, luận không cùng. Chỉ có Phật mới biết lựa dùng để độ từng loại chúng sanh mà thôi.

Trí hỏa hay Huệ hỏa tức là cái trí huệ như ngọn lửa, nó đốt rụi tất cả cỏ rác gai gốc là phiền não vô íchchướng ngại.

Trí huệ đăng hay Huệ đăng, tức là ngọn đèn sáng, các pháp mà Phật thuyết để khai sáng tâm trí cho các hạng chúng sanh, các bậc tu hành. Ngọn đèn ấy, cũng tức là pháp giáo chứa trong các kinh điển đạo Phật.

Trí hải, Trí huệ hải hay Huệ hải, tức là cái trí huệ của Như lai sâu và rộng như biển cả, không một chúng sanh nào có sức đo lường, thấu hiểu nổi!

Trí huệ kiếm hay Huệ kiếm, tức là cây gươm bén cắt đứt các dây phiền não trói buộc mình trong chốn luân hồi, lại dùng để cắt đứt các mối phiền não của chúng sanh.

Trí kính hay Huệ kính, tức là cái kiếng, tấm gương. Khi người ta nhìn vào gương trí huệ thì thấy rõ pháp tà hoặc pháp chánh, người thiện hoặc kẻ ác, thấy từ nhân cho tới quả; tỷ như người đứng trước tấm gương thì thấy mình sạch hoặc dơ và thấy từ sau lưng cho tới trước mặt.

Trí nguyệt, mặt trăng trí huệ, Huệ nhật, mặt trời trí huệ là tiếng xưng Phật, đức trí huệ của Phật tỷ như ánh sáng của mặt trờimặt trăng, chiếu sáng cho tất cả chúng sanh, không phân biệt, không tư vị. Lúc nào ánh sáng của Như Lai cũng tỏa khắp vũ trụ, soi tỏ, dắt dẫn các chúng sanh, chẳng đợi tới lúc Phật ra đời!

Trí huệ thủy, Huệ thủy hay Trí thủy tức là cái trí huệ của Phật và Bồ-tát dùng để rửa sạch phiền não, tẩy hết trần cấu cho chúng sanh; tỷ như người ta lấy nước mà giặt rửa những đồ vật dơ bẩn vậy.

Trí huệ và Phật, hai danh từ ấy là đồng nghĩa. Cho nên khi đức Thích Tôn đắc cái trí huệ hoàn toàn, biết hết tất cả, thành Phật, thì người ta tôn xưng ngài là bậc: Vô thượng huệ, Nhất thiết chủng trí, Đại trí, Lợi trí, Thâm trí, Giải thoát trí, Bất cọng trí, Quảng phổ trí, Tất cánh trí, Trí Bảo thành tựu.

Tức là khi thành tựu cái Bát-nhã Ba-la-mật, người tu có được trí huệ gồm đủ những đức: cao thượng chẳng ai bằng, hiểu biết tất cả, lẹ làng, to lớn, bén nhọn, sâu thẳm, giải thoát tự tại, chẳng đồng với trí thức của các hạng tu học trong ba thừa, cái trí thức bao quát và phổ cập tất cả, đến mức rốt ráo, hoàn toàn như hạt Bảo châu Như ý.

Mà muốn thành tựu cái trí huệ toàn vẹn như vậy, chẳng phải là công tu học trong một vài đời. Phải trải qua vô số đời làm thực hành hạnh Bồ-tát, tu trì sáu Ba-la-mật.

Kìa gương đức Thích ca Như Lai. Đã biết bao đời, ngài bố thí thân mạng và pháp lý, đã biết bao đời, ngài trì tịnh giới mà nêu gương lành nơi chốn tu hành! Đã biết bao đời, ngài nhẫn nhục, chịu các sự thóa mạ, kiêu căng, đánh đập, hành hạ! Đã biết bao đời, ngài tinh tấnchúng sanh, chẳng hề biết mệt mỏi, chán nản! Đã biết bao đời, ngài thiền định nơi chốn rừng sâu! Và đã biết bao đời, ngài tu tập, học hỏi trí huệ; chẳng quản thân mạng, tự mình hy sinh để đạt được trí huệ! Sau rốt ngài mới thâu được cái trí huệ hoàn toàn, trí huệ của Phật Như Lai.

Còn như đức Quán Thế Âm, ngài đang ở vào địa vị đại Bồ-tát. Ngài đang từ bi, đem sáu đức Ba-la-mật mà độ chúng sanh. Khi thì ngài giáng trần mà bố thí, cứu dân. Khi thì ngài hóa ra nhà tu hành trì giới. Khi thì ngài nêu gương nhẫn nhục giữa chúng sanh. Khi thì ngài tinh tấnbước lên nẻo tịnh. Khi thì ngài vào nhập định chốn sơn lâm. Lắm khi, ngài dùng phương tiện, trí huệ mà độ đời. Ngài có đủ phước đứctrí huệ của Phật Như Lai, nhưng ngài vẫn ở địa vị Bồ-tát. Điều nổi bật của ngài là nương theo lòng đại bi, thị hiện ra mọi cách cứu nạn cứu khổ cho chúng sanh.

Lại có một đức Bồ-tát có trí huệ bậc nhất, mà các nhà tu học Đại thừa đều biết tên. Ấy là ngài Văn-thù-sư-lỵ mà Phật từng khen là đại trí Văn- thù. Ngài đắc cái trí huệ của Phật Như Lai đã vô lượng, vô số kiếp rồi, ngài từng giáo hóa cho rất nhiều vị Bồ-tát thành Phật rồi. Ngài từng làm thầy của nhiều đức Phật quá khứ, hiện tạivị lai. Như đức Nhiên Đăng, một đức Phật quá khứ đã thọ ký quả Phật cho đức Thích Tôn, đức Nhiên Đăng thuở xưa là đệ tử của ngài Văn-thù. Và đức Di Lặc, Phật Đương Lai, trước kia là một vị đệ tử trong số tám trăm đệ tử theo học ở ngài Diệu Quang, tiền thân của Văn-thù Bồ-tát. Và hiện trong thời Phật, ngài Văn-thù có độ cho vô số chúng sanh đắc quả vị Bồ-tát. Trong số Bồ-tát đệ tử của ngài, có một cô gái tám tuổi, con của Long Vương Ta-kiệt-la, căn lành đầy đủ, trí huệ hoàn toàn. Long nữ dùng sức thần thông mà bỏ thân gái của mình, hóa hiện thân trai, kế thành Phật, đi làm giáo chủ ở cõi Vô cấu thế giới. Từ xưa đến nay, trải qua vô lượng kiếp, ngài Văn-thù Bồ-tát đã dùng trí huệ Ba-la-mật mà độ cho vô số người thành Bồ-tát và thành Phật rồi. Thế mà vì nguyện lực, ngài vẫn còn ở địa vị Bồ-tát, Pháp vương tử.

Chúng ta đây, tuy chúng ta chưa được cái trí huệ của bậc Phật và bậc Bồ-tát, chớ chúng ta cũng có trí huệ rồi, trí huệ theo từng bậc của chúng ta. Vậy thì ta khá trì sáu cái đức hạnh Ba-la-mật-đa, để có thêm công đứctrí huệ. Như vậy, đời này hoặc các đời sau, ta sẽ được phúc hậu, an nhàn, ta sẽ đạt những điều sở nguyện, ý định của ta sẽ thành tựu rỡ ràng, và ta khỏi bị các điều chướng ngại phiền não cản ngăn. Lại nữa, tâm ý của ta sẽ sáng suốt thêm lần lần, ta sẽ tránh khỏi những điều lầm lạc đáng tiếc, khỏi sa mê vào những chỗ lụy trược, đớn đau. Nhờ vậy, ta dễ mà học hỏi cao xa thêm, hiểu biết nhiều thêm, cái trí hóa ta ngày một phát triển hơn. Cho đến khi nó sáng suốt hoàn toàn, bấy giờ mới có đủ đầy trí huệ của bậc thông suốt tất cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14564)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14360)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12645)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25242)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27877)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26356)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17232)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15917)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22139)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17132)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24908)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21967)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19068)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21722)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16783)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14667)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16705)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18776)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14778)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14373)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16615)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12924)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14945)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14604)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28027)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27190)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20966)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24178)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28687)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13288)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16456)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27239)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16077)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21489)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12377)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant