Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5: Trên đỉnh hoàn cầu...

20 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6116)
Chương 5: Trên đỉnh hoàn cầu...

DU LỊCH XỨ PHẬT
Tác giả: Montgomery Mc. Govern, Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Chương 5: Trên đỉnh hoàn cầu...

Bởi đi sai đường nên ngày 30 tháng 1 chúng tôi phải trở lại một quãng chừng mười hai cây số. Đường lạc đi mất, kiếm khá lâu mới được, lại cùng nhau đi. Nhằm đường núi phải đi lên. Chẳng những là đi bộ, mà chúng tôi còn vác nặng, vì ngựa và la yếu lắm, phải phụ khuân bớt đồ. Đi lên mãi, có lẽ gần sáu ngàn mét cao hơn mặt biển. Chúng tôi ngừng nghỉ nhiều phen, vì lên cao quá rất khổ, càng rán càng mệt, bước thêm một bước thì phổi lại càng tức thêm. Sau đến chót vót, mệt mỏi lắm, nhưng ai nấy đều la rân và rất lấy làm hân hoan. Chính là chúng tôi lên tới đỉnh hoàn cầu, hay là núi Pamir cao sáu ngàn mét. Tôi quay lại trông về phía Ấn Độ. Đứng trên cao hơn hết, nhìn ra mút tầm mắt, bốn phương trời đều là những đỉnh núi đụng tới mây và sương mù. Tôi nhận ra tựa hồ như có một sự xa xôi, mịt mờ buồn thảm bao bọc các đỉnh núi cao hơn hết ở hoàn cầu. Và trí tôi những phập phồng lo sợ, dường như linh cảm có điều chi không lành. Tuy đã dùng hết sức lực để chống chỏi với tuyết và đói, nhưng mới vừa qua khỏi những sự cái khổ thường mà thôi, chứ thật ra thì những nổi gian nguy khổ nhọc như chỉ vừa khởi sự từ đây. Bây giờ đã bước chân đến xứ cấm ngặt, càng đi gần tới kinh đô là càng không chắc ý vững lòng. Ở ngoài truông sự canh giữ không mấy nghiêm ngặt, chứ ở trong thị tứ thì họ tuần phòng gắt lắm, nhất là ở kinh thành. Tôi suy nghĩ đến nổi khó, tuồng như không thể đạt được chí nguyện. Mà dầu có vào đến kinh đô xứ Tây Tạng đi nữa, cũng phải khổ vì hạng thầy tu ganh tị họ không dung cho mình đâu. Hạng này mạnh mẽ lắm, chính do nơi họ mà chính phủ đã không cho tôi vào kinh, lại trục xuất tôi ra khỏi thành Gyangtsé lúc trước. Một mai mà họ gặp tôi vào tới kinh đô xứ Phật thì họ dám ăn gan tôi lắm vậy!

Bụng suy nghĩ đến nổi khổ niềm nguy, nhưng chân tôi vẫn bước tới. Chúng tôi lại phải đi mau, thà cực nhọc mà lướt tới còn ít nguy hiểm hơn băng qua các núi tuyết mà trở lui về. Đến tối, đau đớnmệt mỏi lắm, cả bọn dựng trại trên đỉnh đèo chỗ mặt bằng mà ngủ. Đèo thật cao lớn, chúng tôi chưa qua khỏi đỉnh. Người bản xứ thuật chuyện rằng trên đèo này là chỗ ở của nhiều yêu quái thường hại người qua đường. Nhưng có lẽ yêu quái tha chúng tôi chăng! Trời lạnh lắm, tôi bảo mấy người trong nhóm lấy mền của họ đem đắp lên cho la và ngựa. Còn chúng tôi thì ôm dính cục với nhau cho đỡ lạnh! Đồ ăn còn lại là thịt ngựa đã hạ hôm rồi, chúng tôi có lấy mang theo. Nhờ có chút phân cỏ của một nhóm bộ hành nào đó bỏ lại, chúng tôi nướng sơ thịt ngựa rồi ăn một cách ngon lành. Chúng tôi lại được nước trà nóng mà uống cho ấm bụng.

Cảnh vắng làm cho thấy dễ sợ, mấy người trong nhóm mới quây quần lại mà thuật chuyện giải buồn. Họ thuật chuyện người trên núi và các sơn thần, những chuyện mà mình đã biết, nhưng cũng vui lòng nghe.

Người Tây Tạng tin chắc rằng có một dân tộc bị mất nước dưới đồng bằng, chạy lánh trên non cao. Ấy là một thứ người to lớn, có lông, và mạnh vô cùng. Họ vì bị chiếm đất nước, cho nên mỗi khi thấy người dưới đồng lên, như bọn mục đồng, thì họ giết để trả thù. Chưa ai tận mắt thấy được thứ người ấy, mà ai cũng nói rằng anh em mình hoặc bà con mình có bị rượt, may lắm mới thoát được về.

Anh chàng La-ten thuật rằng một người bạn của anh bị người núi rượt, nhưng nhờ lanh trí nên mới thoát thân. Người bạn ấy bị rượt, nhưng thấy hễ mỗi khi ngoái lại thì người rượt theo cũng ngoái lại đàng sau. Làm như vậy đã lâu, nhưng người ấy rượt theo gần tới, thì anh ta làm bộ ngã ra giả đò ngủ. Người kia chạy đến cũng bắt chước nằm bẹp mà ngủ mòm. Anh ta bèn vùng dậy chạy về.

Người khác nghe nói có hứng bèn thuật lại một chuyện lạ hơn nữa. Có anh nhà quê kia một hôm thấy tướng rừng vào nhà mình, trước cửa có một thùng dầu xăng. Anh kia bèn lấy một thùng nước tạt vào người ấy, thì người ấy cũng chụp lấy thùng toan tạt lại.

Nhưng anh ta liền lấy thùng nước mà đổ trên mình, thì người trên núi cũng bắt chước mà đổ dầu lên mình. Anh nhà quê lấy cây lửa ném lại. Dầu bắt với lửa, thui người rừng chết ngay. Theo tôi, ấy là loài khỉ rừng rất to lớn ở miền núi non Tây Tạng.

Mấy người trong nhóm nói chuyện hoang đường, không giúp gì được về mặt khoa học. Tôi bèn trở qua chuyện khác. Và tôi thú thật với họ rằng tôi muốn giả dạng mà đến kinh thành Lhassa.

Họ lấy làm bất bình lắm. Cả thảy đồng xin tôi bỏ cái ý định mơ mộng ấy. Nhưng sau cùng họ cũng chịu nghe theo vì tôi hứa trọng thưởng họ. Tôi lấy trong đồ hành lý ra một cái áo đẹp của nhà quý tộc mà trao cho anh chàng Sa-tăn. Từ đây anh đóng vai một ông nhà giàu, dắt bọn tôi đi thăm viếng những danh lam thắng cảnh ở thành Lhassa. Còn tôi thì đóng vai người phụ bếp, tiếp dọn cơm nước dưới quyền anh chàng La-ten. Tôi sắp xếp như vậy, mấy người làm thuê cho tôi rất hân hoan. Đương lúc bình thường mà được thay bậc đổi ngôi thì họ vui lắm, chớ thật là nguy hiểm cho họ, nhưng vì không sáng trí nên họ không hiểu được sâu xa.

Tôi cải dạng thật khổ. Tóc tôi trước đã nhuộm rồi, nhưng nay còn phải nhuộm cả thân thể nữa. Dẫu trời lạnh cũng phải ở trần truồng mà chịu cho anh chàng La-ten lấy nước cao với chất oide mà thoa cùng mình. Thật là lạnh thấu xương. Đã mặc quần áo đầy đủ mà còn chịu không thấu, huống là trần truồng mà chịu sức lạnh âm ba mươi độ!

Trước, tôi tính chỉ bôi sơ mấy chỗ ở ngoài. Nhưng sợ người ta có tình nghi mà xét kỹ, cho nên phải sơn hết cả thân thể, để cho chắc chắn hơn. Còn cặp mắt tôi xanh, không giống người Á Đông. Tôi bèn lấy nước chanh mà nhỏ vào, đau đớn lắm. Nhưng mắt được đổi ra màu sẫm tạm trong một thời gian. Muốn cho chắc ý, tôi dùng keo mà thoa theo mí cho giống người Tây Tạng thường hay đau mắt. Tôi lại mang kiếng đen giả ý che nắng. Sau rốt, tôi lấy đồ âu phục mà chôn dưới kẹt đá.

Bấy giờ mới được vào xứ Tây Tạng. Tôi phập phồng lắm, vì ngày ấy không tránh khỏi lính tráng. Và nhờ có gặp lính nên tôi mới biết rằng cuộc giả hình của tôi là có hiệu quả.

Đi tới, thấy tuyết ít dần. Đồng trống, đường liền, nhưng cảnh tượng rất đìu hiu. Ngó chung quanh xa tít mấy mươi ngàn mét, không thấy một chòm cây, một đám cỏ, một xóm nhà. Mặt đất toàn là một màu vàng sậm, trừ ra những nơi có tuyết phủ đã đi qua rồi, tức là núi Tây Tạng bỏ lại phía sau. Ban đầu chúng tôi ngỡ rằng chốn này không có cây cỏ, thì chắc cũng không có loài người và loài vật. Nhưng chẳng bao lâu được gặp vài bầy hươu. Tôi không hiểu nổi làm sao hươu lại sống được với cảnh này. Xem kỹ mới thấy chúng nó bới đất cát lên, phía dưới có một lớp cỏ cũng úa vàng như cảnh tượng chung quanh. Cho đến lông của mấy bầy hươu ấy cũng giống hệt với đất liền nên phải lại gần mới nhận biết được.

Loài thú này hiền lắm. Bên Tây Tạng ít dùng súng, còn ná thì bắn chẳng bao xa, nên hươu không biết sợ người. Lại chính phủ Tây Tạng cấm ngặt sự bắn giết, vì theo thuyết nhà Phật là không bao giờ sát sanh hại mạng. Dân gian đâu đó đều tuân theo, cho nên loài thú này, ở xứ khác là thú rừng, mà ở đây như thú nhà.

Thình lình, khi quẹo một ngả đường, đến ngay trong một làng, người ta xúm lại hỏi thăm, chúng tôi tránh không được. Tôi bảo Sa-tăn và La-ten đi tới trước, tôi thì ở lại phía sau.

May cho chúng tôi và không ai ngăn trở. Hóa ra tôi đã phí công lo sợ, vì về sau tôi được biết rằng trong mùa hạ thì có quan trấn nhậm, còn mùa đông các đường truông đều bị tuyết chận, không ai đi được, nên nhà nước không cần phái quan đến giữ gìn. Tôi sợ người ta biết tôi giả dạng lắm, cứ ẩn theo ngựa và la cho đến khi đi. Làng này nghèo lắm, chỉ mua được có chút ít đồ ăn thôi.

Có ông nhà giàu cai quản trong làng, bán lúa mạch cho chúng tôi. Ông nói rằng mới rồi có hai người trong làng muốn đến Lachen có việc cần. Nhưng qua núi không được, bị bão tuyết đành phải trở về. Trong hai người, có một người bị đau phổi sắp chết. Chúng tôi thật gan lắm mới dám qua đèo, và may mắn mới được bình yên! Dân chúng chỗ này ăn ở dơ nhớp hơn nhiều chỗ khác. Họ ở dơ, họ bị lạnh, họ bị bệnh, cả thảy đều ra bộ dạng buồn thảm lắm. Còn trong làng chỉ có chừng hai ba chục cái chòi bằng lá, khác với phần đông nhà cửa trong xứ. Cả làng đều xúm lại chung quanh chúng tôi. Họ thấy tận mặt còn chưa tin nổi rằng chúng tôi đã vượt qua đèo, vượt qua sự khổ nhọc và tuyết giá lạnh lùng. Tôi để Sa-tăn với La-ten mua đồ, còn tôi thì đi trước với mấy người kia, thẳng đường đến Kamba-Dzong. Nửa giờ sau, hai người đuổi theo kịp. Cả bọn ngừng lại ăn uống. Từ hôm ra đi, chỉ mới bữa nay là ăn ngon miệng.

Chúng tôi còn ngồi thì thấy có hai người cũng đi tới theo đường đến chùa Kamba-Dzong. Tôi phải bỏ đi lại phía sau giả ý coi chừng thú, chờ cho họ đi rồi mới trở ra. Hai người đó đến chùa mà cúng dường một cây phướn mới để cầu nguyện cho người bị cảm nặng vì đã toan qua đèo. Họ đi cúng chùa là xin trời Phật khoan lấy mạng người kia. Còn như mạng người kia đã hết thì họ cầu cho kiếp sau được đầu thai cho đáng chỗ đáng nơi vì anh ta mới nằm mơ thấy mình chết và đầu thai làm một con chí. Anh ta sợ rằng hồi sanh tiền không tu nhân, nên về sau bị trừng phạt. Ban đầu tôi thương hại cho anh phải đầu thai làm chí. Nhưng rồi tôi nghĩ lại rằng ở xứ này làm thân con chí còn sướng hơn làm người.

Vì hết đồ ăn và không biết đường nên bọn tôi phải sang Kampa-Dzong, chứ ý tôi không vui. Kampa-Dzong là một thành lớn như kinh đô, lại ở trong xứ Tây Tạng, có đủ quan lính, nếu họ gặp tôi thì khó lắm, vì họ từng giao thiệp với người Âu Tây nên hẳn phải hiểu rõ tập tục người phương Tây.

Chúng tôi đến thình lình trong mùa đông, làm cho ai nấy đều để ý. Tôi bèn cho Sa-tăn với La-ten đi trước để mua đồ ăn và mướn phòng ngủ. Sa-tăn cắt nghĩa với họ rằng hành lý và thú còn phía sau. Tôi với mấy người kia ở lại dựa bên đường để cho hai người đi lên trước. Một lát sau, có một trận giông to thổi tới. Ai còn chẳng biết xứ Tây Tạng là có giông gió to. Xứ trống trải, không cây cối ngăn ngừa nên những luồng gió kéo nhau mà thổi rất nhanh và rất mạnh. Thường thường có giông to bão lớn về buổi xế chiều.

Chúng tôi ngồi dựa lề đường, giữa đồng trống, lạnh lẽo vô cùng, thật lấy làm thống khổ. May còn có đồ đạc để che chắn, rồi mình ẩn ở phía sau. Giây lát, hai người kia đều ngủ thiếp đi.

Tôi lấy một quyển kinh bằng chữ Tây Tạng và cầm lên xem cho khuây. Mình đã giả làm thân phận tôi tớ mà xem kinh sách thì không hợp chút nào! Là vì bên Tây Tạng chỉ có riêng hạng thầy tu là biết đọc biết viết mà thôi. Tôi vì biết rõ văn chương Tây Tạng, việc ấy suýt chút nữa thì làm cho tôi phải nguy. Lúc ấy có một đám người đi ngang qua, họ thấy trại bèn dừng lại để hỏi coi chúng tôi là ai. Gió mạnh quá, tôi không nghe biết tiếng gì khác. Đến chừng họ đứng trước mặt tôi mới hay.Họ xúm lại hỏi nhiều việc, nhưng tôi không dám trả lời. Tôi chỉ đọc lớn tiếng dường như tôi đương tụng kinh mà chẳng được phép ngừng. Tôi vừa đọc, vừa lấy chân khều Syce. Anh ta mở mắt ra, trả lời giễu cợt làm cho toán người kia cười rộ lên rồi bỏ đi. Đến chiều mặt trời lặn, chúng tôi mới dám vào thành. Đường không xa mà đi mất mấy giờ đồng hồ, vì có một con ngựa bị lạnh và bị thiếu hụt đồ ăn nên yếu lắm, nó đi không muốn nổi. Chúng tôi phải đẩy nó, rồi kéo nó. Sau rốt nó nằm lỳ một chỗ và chết luôn tại đó. Mấy con kia đã chở nặng rồi, không thể nào lấy đồ trên mình con ngựa chết mà chất thêm lên. Tôi đành bỏ ngựa, yên và đồ ăn. Con ngựa đã chết, chúng tôi đi được nhanh hơn, vừa đi vừa xem cảnh vật lúc ban đêm. Vầng trăng lộ lên, ánh sáng soi xuống như hào quang huyền ảo. Cảnh buồn xem chừng đã bớt. Còn thăm thẳm phía sau là mấy đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn và những ánh sáng đủ màu. Chung quanh, tiếng gió kêu ồ ồ dường như tiếng rền rĩ, nguyền rủa của bọn yêu tinh!

Gần vào thành thì gặp La-ten. Anh chàng thấy trễ nên trở lại tìm chúng tôi. Anh cho chúng tôi hay một vài tin tức mới. Quan chức nghe tin bọn tôi tới thành, đã giữ cả hai anh lại, gặn hỏi Sa-tăn muốn đi những đâu, và từ đâu mà đi lại đây. Rất may là anh chàng đã không làm cho họ nghi ngờ gì về phần tôi, và nói rằng thú vật mệt lắm nên còn đi chậm chậm phía sau. Họ thả hai người ra và cho phép mua đồ ăn tại chợ Kampa-Dzong.

Theo lời tôi dặn trước, Sa-tăn và La-ten thuê chỗ ở ngay trong một quán cơm gần chợ. Chúng tôi đến ngay đó trước khi vào nội thành. Hôm ấy nhằm lúc chợ phiên, người ta đông đảo lắm. Mướn được một chỗ cũng là may lắm rồi, nhưng phải chia sẻ với vài người thương gia, cùng chung một phòng. Sa-tăn lúc này đóng vai chủ đoàn, được ngủ trong nhà. Anh chàng còn thừa dịp ấy mà lấy mấy cái mền tốt để đắp, bỏ cả nhóm bọn tôi ngủ ngoài trời, mỗi người một cái mền xấu, phải chịu lạnh lẽo vô cùng. Lạnh đến âm ba mươi độ. Trước khi đi ngủ, La-ten và hai người kia ăn một bữa no nê, lại còn uống rượu thả cửa. Còn tôi chưa dám chường mặt, đành phải ở trên nóc nhà. Tôi có dặn La-ten nói rằng tôi đau, mệt lắm, xuống ăn không được. Lấy cớ ấy, anh chàng mang đồ ăn lên cho tôi. Tôi ăn một hơi hết sạch. Thèm ăn, nên ăn ngon miệng lắm. May là không ai để ý, chứ một người bệnh mà ăn nhiều quá cũng là một chuyện lạ!

Lạnh cho đến nổi tôi ngủ không được. Mỗi lần vừa muốn chợp mắt ngủ thì lại giật mình. Ngủ không yên, đành ngồi dậy mà xem cảnh vật dưới bóng trăng thanh. Trời đêm, thành thị xem ra cũng thật là đồ sộ, uy nghiêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14294)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14346)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13259)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14624)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12635)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25212)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27851)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15905)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22122)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17124)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24884)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16165)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21716)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16776)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14662)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16695)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16602)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18003)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12912)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14596)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27990)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27155)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20924)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14664)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24166)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28650)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14728)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16431)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27214)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16065)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant