Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8: Trước hàm sư tử

20 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6369)
Chương 8: Trước hàm sư tử

DU LỊCH XỨ PHẬT
Tác giả: Montgomery Mc. Govern, Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Chương 8: Trước hàm sư tử

Trời còn sớm, tôi muốn dừng nghỉ và viếng thành Pédé-Dzong, vì còn vài cây số thì tới. Khi gần đến mới hay một tin rất quan trọng làm cho tôi phải sắp đặt lại việc đi đường.

Thấy tôi vắng mặt ở Darjeeling lâu, người ta đã bắt đầu dị nghị. Và khi biết rằng tôi đã qua khỏi xứ Sikkim thì họ mới nghi hoặc thêm. Sau nghe đồn rằng có người gặp tôi gần Lachen, họ mới chắc rằng tôi đi vào Tây Tạng và muốn đến kinh thành Lhassa.

Chính phủ liền thông báo cho các quan địa phương. Ngay hôm tôi đi khỏi Shigatsé ngày 7 tháng 2, thì chính phủ trung ương và hội đồng các bộ trưởng ở Lhassa biết rằng tôi đã vào Tây Tạng và đang đi thẳng vào kinh. Ngày kế đó chính phủ liền gởi giấy báo đến các quan địa phương, ra lệnh tìm kiếm tôi mà bắt lại và đuổi trở ra khỏi biên giới. Vài ngày sau, không nghe ai bắt được tôi, chính phủ bèn cho các quan chức được phép đón xét và lục soát kỹ lưỡng những bộ hành và thương khách đi theo đường vào kinh đô.

Các đường lớn đều có người canh giữ rất nghiêm. Chúng tôi đi theo đường vắng, ở mấy chỗ đó họ chưa hay, cho nên chúng tôi không nghe tin tức gì lạ. Đến khi tới đường lớn từ Gyantsé, thẳng suốt vào Lhassa, chúng tôi mới hay thiên hạ đồn rùm với nhau rằng có yêu quái ở ngoại quốc đang đi vào trong nước.

Dân gian lấy làm sôi động, ai cũng đều hỏi chúng tôi xem có thấy người lạ ấy hay chăng. Lẽ tất nhiên là chúng tôi đáp rằng không thấy. May cho chúng tôi đi với đám người danh giá, cho nên không ai để ý nghi ngờ. Nhưng họ đã tới nhà, bây giờ mình không tháp tùng với ai, tôi cứ sợ gặp việc trắc trở nên lòng lo lắng ái ngại hoài. Đường đến kinh đô còn không bao xa, lối chừng tám chục cây số, mà họ giữ gìn rất nghiêm nhặt, nhưng cũng đánh liều nhắm mắt đưa chân. Từ hôm đi không có việc gì trở ngại, là vì không ai nghi ngờ. Tuy vẫn chắc ý về sự thay hình đổi dạng, nhưng họ xét kỹ lắm, đâu dám chắc gì là mọi chuyện đã hoàn hảo.

Ngủ không được, tôi bèn ra ngoài đi dạo với La-ten. Tôi có đem theo đồ để vẽ mặt mày, vì mấy hôm nay quá dày mưa dạn gió nên nước thuốc đã phai nhạt đi dần. Chúng tôi đến chỗ vắng, La-ten bèn sửa dặm lại cho tôi. Xong rồi, tôi bỏ hết đồ ấy, vì nếu đem theo chúng xét gặp được thì bại lộ. Hai đứa tôi đi dạo gần đến chùa Samding là một cảnh chùa có danh tiếng ở trong nước. Chùa này lạ hơn hết, phân nửa người tu hành là tăng, còn phân nửa là ni, trên hết có sư trưởng là một sư nữ, gốc là Thánh mẫu Dorjé-Pamo tái sanh. Chùa của Phật bà tuy không phải của chính phủ, vì tăng chúng đội mũ đỏ chứ không phải đội mũ vàng. Song Nhà nước cũng đối với bà ngang hàng như đức Phật sống là nhà vua. Những khi đi xa bà cũng ngồi kiệu như đức Đạt-lai Lạt-ma và đức Ban-thiền ở chùa Trashi.

Bà không giữ lệ cạo đầu như các vị tăng ni, nhưng bà không bao giờ nằm mà ngủ. Ban ngày bà có thể ngồi ngủ trên ghế dựa, nhưng ban đêm bà thức trọn mà tham thiền, bà ngồi tập trung tư tưởng rất nhọc nhằn theo như cách của các nhà tu hành đại định.

Tôi không dám đi gần chùa và không dám để cho mấy vị sư với sư cô gặp, vì trong xứ người ta còn nhớ một chuyện truyền kỳ: Ngày trước có một người ngoại quốc vào xứ, thì nước dưới hồ trong chùa liền đổi màu và thành nước độc. Từ đó về sau, người trong chùa biết mà ngăn ngừa người lạ. Chùa không nằm trên đường đi, thì dại gì phải đi ngang ấy cho mang họa. Dạo cảnh qua loa, rồi La-ten với tôi cùng trở lại chỗ ngụ ở làng Yasé.

Chuyện Phật bà và những lời đồn dân dã làm cho thằng La-ten sợ lắm. Anh ta nói với tôi rằng nên trở về, hoặc có muốn đi thì nên đi một cách công khai, bất quá họ có bắt cũng chỉ giam lại rồi trục xuất về xứ. Còn để người ta truy tìm, bắt được theo cách giả dạng thế này thì chắc người ta sẽ hành khổ và giết chết mất. Tôi đáp rằng mình đi đã xa rồi, trở về là dại lắm, và tôi đã quyết chí vào kinh, dẫu cho nguy cách nào tôi cũng không lo ngại. Anh ta không lấy gì làm hài lòng, nhưng cũng nghe theo, và hứa giữ lòng trung thành với tôi.

Tôi cũng định tháp tùng với một đoàn lữ hành đặng khỏi bị nghi ngờ, như vừa rồi nhờ đi chung với người bản xứ mà tôi vào tới làng Yasé được dễ dàng. Tôi cho La-ten đi rảo trong làng tìm xem có đoàn lữ hành nào muốn tới Lhassa chăng. Anh ta chẳng tìm được. Nhưng ở trong một quán trọ, gặp ba lữ khách sắp vào Chushul, xứ này cách đô thành Lhassa sáu chục cây số. Chúng tôi tạm cho là được nên thương thuyết với họ đặng đi chung một đoàn.

Trời gần sáng, cả bọn ra đi. Một lát sau, thấy thành Pédé-Dzong phía trước. Chúng tôi muốn đi qua khỏi thành hồi khuya, nhưng vì trễ nên có một người lính tuần trên tháp trông thấy. Chúng tôi không ngừng ở trong làng về phía dưới thành, lại đi rất mau. Liền đó, có hai viên quan trong thành chạy tới và ra lệnh bảo chúng tôi ngừng. Họ hỏi chúng tôi ở đâu lại và có gặp người ngoại quốc nào chăng.

Lúc ấy, tôi tưởng là không xong rồi. Họ xét thằng Sa-tăn rất kỹ vì nó là chủ. Họ cũng xét tôi, nhưng sơ sài lắm, còn sơ sài hơn xét thằng La-ten, vì tôi là đầy tớ bậc chót! Họ cũng mở nút áo tôi ra, thấy ngực tôi cũng đen đúa dơ dáy như mọi người, bèn thả tôi. Tôi lo sợ về cặp mắt lắm, nhưng họ không thấy. Họ đâu có ngờ được rằng, một người Tây đi bộ ròng rã bốn chục cây số với các đồ nặng trên vai, còn người làm thuê lại ngồi trên yên ngựa rất thong dong nhàn hạ!

Trải qua bao cơn nguy hiểm, bao lần thấy sự chết giữa đường, nghĩ lại mà tự khiếp. Bây giờ đi tới kinh đô, thấy người ta tuần phòng nghiêm ngặt lắm, lại càng khiếp thêm.

Chúng tôi nghỉ trong nhà trọ, làm quen với cô chủ. Cô ta vui lòng ngồi lại mà cói chuyện với chúng tôi. Tôi buồn ngủ, ngồi dựa góc tối. Thình lình nghe cô ta đem chuyện người ngoại quốc muốn vào kinh đô mà thuật lại và hỏi rằng chúng tôi có thấy người ấy hay không. La-ten đáp rằng chẳng gặp ai là người ngoại quốc và bởi vì bận công việc đi đường, nên không để ý đến việc gì hết. Cô ta nói rằng muốn gặp yêu quái lạ lùng và sẽ có cách xử trí với yêu quái. Cô ta chắc rằng quan chức tìm kiếm kỹ lắm, thế nào cũng phải bắt được. Hơn nữa, đức độ nhà vua lớn lắm, có thể làm cho yêu quái bị người ta nhìn bắt và đuổi về xứ.

Tôi nghe cô trông cậy vào đức của Phật sống thì lưu ý lắm. Người Tây Tạng kính phục nhà vua, xem như đức Phật đầu thai, có đủ toàn năngtoàn trí, họ nghĩ rằng ngôi vua chỉ để riêng cho đức Phật sống, chớ thường nhân không ai dám tranh giành.

Vua đã trải qua mấy lúc gian truân, mấy phen lận đận lưu vong, nhưng lòng dân vẫn còn tôn trọng ngài luôn. Có lẽ họ đã quên mất mấy năm lưu lạc của vua rồi. Cô chủ nói hết chuyện, chúng tôi ngủ đến khuya rồi dậy ra đi.

Trời vừa rạng sáng, đi đến mé sông, phải qua đò. Tôi sợ bên kia sông có quan đứng đón mà xét bộ hành từng người. Chúng tôi tới bến đò thì bọn chèo còn ngủ. Họ chờ đến sáng mới chịu đưa khách qua sông. Đứng một lát lạnh quá, nhưng tôi không muốn đứng gần nhà đò, bèn đi dạo theo ven sông, luôn dịp xem cảnh chùa trước mặt.

Chùa chỉ có chừng mấy trăm tăng chúng, nhưng là một chỗ có danh tiếng từ xưa. Có danh là nhờ cái cầu sắt bắt ngang sông, gần bến đò. Bây giờ cầu vẫn còn. Buổi rạng đông đứng trông thật là đẹp. Nhưng cầu không còn dùng được, vì mấy năm sau này mé sông lở rộng ra, cho nên cầu dường như bắt trên một cái cù lao. Người Tây Tạng không làm cầu lại, cho nên bây giờ phải dùng đò mà qua sông.

Văn minh Tây Tạng ngày nay suy yếu rồi. Cái cầu ấy làm chắc lắm, đã chịu nổi trên năm trăm năm, từ đời vua Tang-Tong tức là khoảng thế kỷ thứ 14, 15.

Người ta thờ vua Tang-Tong vào bậc thánh. Bây giờ vẫn còn thờ phụng trong chùa gần cầu. Vị vua ấy chẳng những làm một cái cầu đó mà thôi, ngài lại còn cất 108 cái chùa và 7 cái cầu khác bắt ngang sông Brahmapoutre. Có nhiều cầu bây giờ vẫn còn dùng được như xưa.

Trời sáng, tôi trở lại bến đò. Tôi đang đi, có một toán ni cô đi qua mặt. Họ cũng đi lại bến đò, vừa đi vừa nói chuyện một cách vui vẻ.

Mấy người dưới đò thức dậy rồi. Cùng nhau xuống đò, có mấy ni cô, ba bốn thầy sãi với bọn chúng tôi.

Đò đi chậm chạp. Nhưng khi qua sông, thật may mắn là không gặp quan chức đón hỏi. Vì đò là của riêng, chùa cho người ngoài mướn, thâu lấy một phần lợi vào việc nhang đèn

Chúng tôi đi chung với mấy người nữa. Họ đi về quê của họ là Chushul. Qua khỏi một cái truông, bây giờ đã thấp thoáng thấy thành phố Chushul từ xa. Chỗ này có binh lính rất nhiều, ấy là một địa điểm trọng yếu về quân sự.

Hồi năm 1910, lúc Tây Tạng bị Trung Quốc chiếm, vua Đạt-lai Lạt-ma trốn qua Ấn Độ, lính Trung Quốc quyết vây bắt cho được vua, không cho thoát ra ngoài. Một đội binh dưới quyền chỉ huy của tướng soái Tây Tạng tên Nam-gang, là quan Tsarong-Shapé bây giờ, đã đón binh Trung Quốc tại chỗ này đánh cầm chừng nhiều ngày để cho vua thoát ra khỏi biên thùy.

Chushul vì gần thành Lhassa, nên người ta canh giữ nghiêm hơn các nơi. Mấy chủ nhà trọ đều ghi tên họ của hành khách lạ và có quan chức đến khám xét thật kỹ, không ai lén lút vào kinh đô được. Mấy người bạn đi đường với chúng tôi là người danh giá trong thành phố, đủ đảm bảo cho quan chức tin chúng tôi là người chắc chắn, nên không ai ngăn cản, được đi lại tự do. Từ đây cả bọn không được tháp tùng với ai, tôi lấy làm tiếc lắm.

Trời nắng, tôi lại đang có bệnh, nhưng phải đi trước. Mấy người kia cưỡi ngựa theo sau. Đến một chỗ vắng, không thấy ai, tôi bèn ngồi nghỉ, nhưng không ngồi xếp theo kiểu người Tây Tạng. Thình lình có một viên quan với hai người lính đi ngựa tới, rẽ qua một góc đường bất ngờ gặp tôi. Thấy tôi ngồi theo dáng lạ, họ liền dừng ngựa lại họ hỏi tôi là ai, muốn đi đâu. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì một chuyện rất nhỏ mà họ cũng để ý nghi ngờ. Tôi bỡ ngỡ, chỉ nói lập cập rằng tôi bị bệnh, rằng tôi là một người nhà quê hèn mạt theo chủ đến kinh mà hành hương...

Sa-tăn với La-ten vừa đến kịp. La-ten hiểu ngay tình cảnh lôi thôi, anh chàng liền tiếp cứu tôi bằng một cách rất hay. Anh chạy ngựa lại, quất tôi một roi rất đau và la rầy tôi sao dám ngừng nghỉ dọc đường, rồi hét lên bảo tôi phải đi liền. Tôi ríu ríu đi. Hai người đứng lại nói chuyện với viên quan, chỉ một lát hai người lại theo kịp tôi và cho hay rằng chuyện đã êm.

Mấy tháng sau, khi tôi về xứ, mới biết rằng trước đó đã có ông Sir Francis Burton muốn lén qua thành La Mecque, do sơ ý cũng ngồi theo cách như tôi mà bị chúng bắt được rất lôi thôi.

Tôi đi trước, để mấy người của tôi đi ngựa theo sau. Dọc đường, có nhiều người qua mặt chúng tôi. Họ đi ngựa vào kinh. Và chúng tôi cũng qua mặt nhiều người khác. Những người nầy là người hành hương, họ chịu khổ để cầu được công đức. Có một người làm cho tôi rất chú ý. Ông ta vừa đi vừa lạy, cứ mỗi một bước thì lạy một lạy. Tôi có cúng dường cho người ấy. Ông nói rằng định đi hành cước đến các danh lam bên Lhassa. Ông đi như vậy từ thành Shigatsé, vừa đi vừa lạy đã được một năm rồi. Ông nói rằng muốn thí thân cách ấy đặng sám hối các tội lỗi trước đây của mình. Ở Tây Tạng, những sự khổ hạnh như thế đó là rất thường. Song tôi mới thấy lần này là lần đầu.

Đi gần tới, nhưng chưa thoáng thấy được kinh thành. Khi trèo lên một đỉnh núi, tôi nhìn thấy từ xa một đám lầu đài, chất chồng với nhau, trông thấy vẻ đồ sộ đến nổi không bao giờ tôi quên được. Tôi nghĩ bụng rằng chỗ đó chắc là chùa Drépung là ngôi chùa có tiếng lớn nhất ở đây. Tăng chúng trong chùa theo quy định là bảy ngàn bảy trăm người, nhưng thường thì nhiều hơn, có thể đến hơn mười ngàn.

Kinh đô có nhiều chùa, nhưng không nơi nào đông bằng chùa này. Tại kinh thành có ba cảnh chùa lớn, mỗi chùa có cả lực lượng riêng, có tổ chức, phẩm trật lớn nhỏ, và có nhiều ruộng đất ở khắp trong nước. Ba ngôi chùa này có ảnh hưởng lớn đối với chính phủ. Cho đến đức vua Đạt-lai Lạt-ma với chư đại thần cũng không dám coi thường họ. Nhưng to lớn, có thế lực mạnh mẽ hơn hết, oai quyền hơn hết, mà lại bảo thủ hơn hết là chùa Drépung, sừng sững trước mắt tôi. Kế là chùa Séra có năm ngàn năm trăm vị tăng, và chùa Ganden với chừng ba ngàn ba trăm. Nhưng chùa Ganden có danh về lịch sử và cảnh chùa nghiêm trang hơn hết trong nước, do đức Tsong Khapa lập ra. Ngài là người sáng lập phái thầy tu mũ vàng, có những cải cách cho đạo Phật rất thích hợp.

Khi xuống núi, tôi thấy một cái hình chạm rất lớn, hình đức Phật ngồi trong một hòn núi. Hình chạm khéo léo, tinh xảo và thần tình lắm. Chúng tôi theo đường đi thẳng tới chùa Drépung, nhưng chưa thấy kinh thành. Lạnh lắm, mệt lắm, mà càng đến gần, càng lặng thinh một cách ghê sợ.

Nhiều người, có cả nhiều nhà sư, cũng đi vào kinh đô. Bọn chúng tôi đi tới rất khổ. Mấy nhà sư được dân chúng kính nể lắm, họ không thèm ngó đến chúng tôi. Có nhiều lần người ta hỏi chúng tôi từ đâu tới, Sa-tăn đáp rằng ở bên Sikkim qua. Họ lại hỏi có gặp người ngoại quốc muốn vào kinh thành chăng? Chúng tôi chỉ trả lời không thì rồi họ chẳng hỏi han gì thêm nữa. Khắp nơi, người ta đều nhốn nháo. Ai nấy cũng xôn xao vì chuyện tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19888)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20951)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19320)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40573)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21292)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41114)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24145)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23082)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17876)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27003)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20769)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33662)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21060)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28958)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12713)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25335)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19165)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17531)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25812)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19035)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19014)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18930)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38435)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31283)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18259)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24539)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19465)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17927)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23089)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18044)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32236)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17400)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16096)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18579)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20792)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18095)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20135)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14916)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20942)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15077)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15784)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12949)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14522)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14935)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29442)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14542)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant