Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

C. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong những áng văn thơ

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5789)
C. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong những áng văn thơ

TAM BẢO VĂN CHƯƠNG
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

IV. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo đối với dân ta

C. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong những áng văn thơ

Chẳng riêng gì hạng bình dân, chẳng riêng gì trang niên thiếu, mà ngay trong hàng thượng lưu trí thức, trong bậc trung niên và lão thành cũng chịu ảnh hưởng tinh vi của đạo Phật nữa. Bậc sĩ phu của ta đã từng cảm mến giáo lý từ bi của đạo thiền, và các hàng tao nhân mặc khách, các tay thi bá, văn nhân đều thừa hưởng tinh thần nhà Phật. Cho nên trong các áng văn thơ, trong tuồng, truyện từ xưa đến nay, ta thường thấy có lắm danh từ của nền văn chương Phật học.

Lại có nhiều chương, nhiều đoạn nương sức tiếp trợ của một nhà chùa, mượn sự cứu hộ của một nhà sư, nhờ sức tế độ của một đức Phật, của một đức Bồ Tát mà thành ra thâm thúynghiêm trang. Kìa như một tay anh hùng vì háo nghĩa, giết phường ỷ thế hiếp cô, tự bó tay để cho người ta làm tội, rồi vượt ngục, vào tá túc nơi nhà chùa xem kinh đọc kệ:

Vừa may mà gặp chùa này,

Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương.

Lại như một trang thư sinh lỗi lạc, nhưng gặp lúc cùng đồ, thân mang bệnh ngặt, thế mà được các sư nuôi nấng cho trong mấy năm trường:

Ai đi, chùa bần bạc đã không bốn vách,
Còn cậu tôi bệnh trầm kha lại giáp ba năm...
Thưa thưa, lòng kính thành bái tạ cao tăng,
Dặm diêu viễn trông chừng làng hạnh...
Diêu viễn, trông chừng làng hạnh,
Cúi đầu từ, đài kính cửa Không...

Lại nữa, như một trang thục nữ, muốn giữ tròn chữ trung, chữ hiếu, chữ tiết, chữ trinh, bèn gieo mình xuống ngọn thủy triều, thì:

Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào trong bãi rày...
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay.
Quan Âm thương đứng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa...

Đó là những chương, những đoạn trong thơ văn, truyện tích, nhờ sức từ bi của Tam Bảo, tô điểm cho thêm phần trân trọng. Lại còn biết bao thơ, tuồng, truyện, lấy lý nhân duyên, nghiệp quả, lấy tiền căn hậu báo, lý hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai của nhà Phật mà làm đề; thâm ý của thi nhân, văn sĩ là muốn nêu gương lánh dữ làm lành cho nhân dân. Ấy nhờ cảm cái tinh thần đạo Phật mà các vị ấy cọng tác vào cuộc chấn hưng nền thuần phong mỹ tục trong nước đó.

Ngoài sự nương vào ngôi Tam Bảo mà lấy tích và làm đề cho những áng văn chương, các bậc thi nhân, văn sĩ ta lại còn nhờ ảnh hưởng của Phật, Pháp, Tăng trong sự hành văn của mình nữa. Trong mỗi áng văn, thơ, ta đều thấy rất nhiều danh từ văn chương nhà Phật.

Về việc này, ta có thể phân các thi nhân, văn sĩ của ta ra hai nhóm. Một nhóm những người chưa từng đọc qua kinh sách nhà Phật, và một nhóm vốn đã làu thông đạo lý diệu huyền. Nhóm thứ nhất nhờ cảm mến giáo lý từ bi do các sách ngoài hoặc do xã hội Việt Nam mình đã từng chịu ảnh hưởng lâu đời của Tam Bảo mà hay dùng những danh từ nhà Phật trong lúc hành văn. Còn nhóm thứ hai thì nhờ có hâm mộ triết học nhà Phật, thường viếng chùa, xem kinh, cho nên trong sự hành văn thường dùng danh từ nhà Phật mà văn chương có bề lưu loát, thâm trầm và siêu việt hơn.

Như Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu), Bùi Hữu Nghĩa (Thủ khoa Nghĩa) không mấy khi xem kinh Phật; còn Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm và tác giả vô danh của quyển Quan Âm Thị Kính thì rất hâm mộ văn chương Phật học, rất tinh thông về Phật lý. Tuy vậy, bên nào cũng có được ảnh hưởng nhà Phật trong thi văn của mình.

Dưới đây, muốn làm rõ những ảnh hưởng ấy, tôi xin trích ra những đoạn văn trong các quyển: Lục Vân Tiên, Kim Thạch Kỳ Duyên, Kim Vân Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc và Quan Âm Thị Kính.


Trong Lục Vân Tiên ta thấy:

Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.

Trực rằng: chùa rách Phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.

Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.

Dù cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.

Có thân phải khổ với thân,
Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may.

Thỉnh ông Phật Tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.

Dù cho tài trí bậc nào,
Gặp cơn nguy biến biết sao mà nhờ.

Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi, đổi dời sao xong.

Người đời như bóng phù du,
Sớm còn, tối mất, công phu lỡ làng.

Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là.

Con xin sang lạy Lục Ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.

Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.

Người ngay, Trời Phật cũng vưng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.

Khi khuya nằm thấy Phật Bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây.

Đoạn này đến thứ ra đời,
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đem nằm thấy ông Tiên,
Đem cho chén thuốc, mắt liền sáng ra.


Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con thảo, lòng thành ngày nay.
Xưa nay những đứa vô nghì,
Dù cho có sống làm gì nên thân.

Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.

Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.

Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nổi mà mong tới đòi.

Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.

Trong Kim Thạch Kỳ Duyên ta thấy:
Nghiêng vai, ngửa vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ người trầm luân.
Gần đây nọ sẵn am vân,
Vào đó họa nhờ thang thuốc.

Ưng ai chư phương Phật, ơn chín Trời mười Phật,
cứu nạn sĩ siêu sanh.


Tôi nói thật, sau nhẫn dù gặp vận thới hanh,
lòng khẩn nguyện sùng tu Phạm võ.

Oan kết theo hồn Tinh Vệ,
Lụy rơi hóa huyết Đỗ Quyên.
Mênh mông sóng thảm bủa đầu thuyền,
Lai láng gió sầu xao mặt nước.

Phú quý tợ môn tiền tuyết,
Còn ân tình như thảo thượng sương.

Chữ dinh hư hữu số,
Tình chung thỉ bất vong
Công danh như bào huyễn.
Phú quý tợ phù vân.

Hoa viên kíp tới, mặt ngọc tỏ trình,
Cơn rứa chừ, đỏng đưa một chiếc thuyền tình.

Kim Ngọc là Phật, Bồ Tát đi nữa,
Là cũng phải:
Chìm đắm mấy con sóng sắc, chớ.

Tôi có nghe trên chùa Thiên Trúc làm chay,
Chừ, thắt thẻo ruột tằm quá đói.
Lần hồi chân gượng phải đi,

Họa là nhờ cửa từ bi,
Ngõ đặng qua cơn khổ não.

Vẳng nghe mõ cá chuông kình,
Gượng lần bước tới ngõ đành hóa duyên.
Tham những giàu sang trước mắt,
Ai dè cực khổ sau lưng.

Mình làm ra sự tệ,
Trời thật có mắt coi.

Trong Truyện Kiều ta thấy:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa.

Ví chăng duyên nợ ba sanh,
Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi.

Tái sanh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?
Số còn nặng nghiệp má đào,
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho

Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.

Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi.

Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.

Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho?
Khi chè chén, khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh.

Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!

Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục, thiên đường là đâu.

Tìm đâu cho thấy cố nhân,
Lấy câu vận mạng, khuây dần nhớ thương.

Bể trần, chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời.

Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay.
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.

Phật tiền, thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng, tưới tắt mọi đường trần duyên.

Sớm khuya lá bối phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.

Đầu xanh đã tội tình gì,
Má hồng đến quá nửa thì, chưa thôi.

Người sao hiếu, nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?

Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cỗi phúc, tình là dây oan.

Sư rằng: Song chẳng hề chi,
Nghiệp, duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều.

Khi nên trời cũng chiều người,
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.

Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền Đường thả một bè lau rước người.

Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời dư không.

Tấm thành đã thấu đến Trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.

Còn nhiều hưởng thọ về sau,
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.


Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng.

Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.


Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.

Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi.
Dở dang, nào có hay gì,
Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi.

Gẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Trong Cung oán ngâm khúc ta thấy:

Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẫy nguội lần lửa duyên.

Kìa thế cuộc như in giấc mộng,
Máy huyền vi mở đóng khôn lường.
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định, khá thương lọ là.

Gót danh lợi bùn pha sắc sậm,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

Mùi tục lụy, lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ, gót rỗ khi khu.

Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh.

Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.


Ngày mượn thú tiêu diêu cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm, đuốc huệ làm duyên.

Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia?
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.

Miếng cao lương phong lưu nhưng lạm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.

Trong Quan Âm thị Kính ta thấy:

Nhân sanh thành Phật dễ đâu,
Tu hành, cứu khổ rồi sau mới thành.
Ai hay bền dạ làm lành,
Chứng minh trong chốn minh minh cũng tường.

Có phen thề thốt dưới trăng,
Một rằng thế thế, hai rằng sinh sinh.

Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp này đã lỡ, chắc gì kiếp sau?

Có khi dốc chí tu hành,
Lánh mình trần tục, nương mình thiền môn.
Độ trì nhờ đức Thế Tôn,
Lỡ làng thuở trước, vuông tròn mai sau.

Cửa thiền sẽ lén chân coi,
Trông lên sư cụ vừa ngồi tụng kinh;
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu

Chán vùng danh lợi, phiền hoa,
Chắp tay xin đến thiền già quy y.

Đoái trông thế sự nực cười,
Như đem trò rối mà chơi khác gì.
Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trắng, lúc thì chó đen.
Chật đường hồ thỉ như nen,
Cân đai cố phục người quen với mình.

Chẳng thèm ra áng công danh,
Mà đem thân thế làm hình dịch chi.
Cho nên mến cảnh từ bi,
Dám xin nhờ đức tăng ni mở lòng.

Kìa bào, kìa ảnh phút qua,
Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.
Lựa là tranh trí thấp cao,
Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh.

Lấy ai làm nhục làm vinh,
Trăm năm là áng ngàn xanh rì rì.

Vâng lời, lãng cảnh ngọc phương,
Khêu đèn Bát-nhã, đóng chuông Tam thiền.
Này gươm trí huệ mài đây,
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.

Lấy chi làm chuyện giải phiền?
Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa.

Chữ rằng: nhẫn nhục nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu,

Nhưng, thời trong dạ hiếu sanh,
Phước thì làm phước, dơ đành tiếng dơ.

Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phước cứu cho một người.

Miền Bát-nhã tìm vào mây khói,
Nương bè từ vượt khỏi sông mê.

Đuốc quang minh đốt cháy thành sầu,
Biển khổ hạnh cháy lên Đại giác.

Từ những lời ăn tiếng nói, những câu ca dao, những danh từ trong các văn thơ, tuồng, truyện... ta thấy rằng người Việt Nam ta thấm nhuần tinh thần nhà Phật một cách đằm thắm, sâu xa. Từ trên tới dưới, từ già chí trẻ, từ nam tới nữ, dù có xem kinh điển nhà Phật hay không, dù có thường viếng chùa lễ Phật hay không, ai nấy đều thấm nhuần tinh thần từ bi hỷ xả của Phật, cũng như các đạo lý nhân quả, luân hồi trong các kinh Phật. Nhờ vậy mà sự sống của dân tộc ta được êm ái, hiền hòathuần túy.

Vậy thì từ đây, mong rằng những vị chưa từng xem qua kinh điển nhà Phật nên để ra chút ít thời giantìm hiểu về Phật lý, điều ấy rất dễ giúp cho mình dung hòa cõi đời với cõi đạo, rất dễ làm cho mình an ổn thân tâm, và có công hiệu nhất trong việc khuyên lơn, an ủi để mình vững chí mà tiến bước lên trong những công việc ích mình lợi người.

Và cũng mong rằng những vị đã xem qua kinh sách nên xem cho nhiều hơn, và tùy sức mình mà thi hành theo giáo lý của đức Phật, để cho hạt giống Bồ-đề càng ngày càng mở mang ra vậy.

Nam Mô A Di Đà Phật

Saigon 1-10-1946

Đoàn Trung Còn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14847)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17775)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18206)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21129)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32550)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15295)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12339)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27470)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12127)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34912)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11803)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12638)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32449)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19451)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14080)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14263)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14134)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11950)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53137)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11649)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13915)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13808)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20680)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14308)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13605)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34140)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16205)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14067)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14195)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13548)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15891)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13499)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22945)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27723)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24930)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13941)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31307)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13856)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15553)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14954)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant