Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

26. Bạch Y Quán Âm

05 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7180)
26. Bạch Y Quán Âm

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu

26. BẠCH Y QUÁN ÂM

Sau khi hiển hóa ở Trung Nguyên rồi, Bồ Tát Quán Âm bèn đi vân du ở biển Tây.

Hôm ấy, vừa đúng phiên chợ ở trấn Phù Dung, một thị trấn nhỏ nằm ngay dưới chân núi Phong Hoàng, người qua kẻ lại đông đúc náo nhiệt, chen chúc nhau trên mọi nẻo đường. Cứ dọc theo con đường lớn đi thẳng về phía trước thì ở góc đông bắc của chợ sẽ thấy có một tấm bảng viết bốn chữ lớn “Chữa bệnh cứu đời” đập ngay vào mắt. Nhìn kỹ, sẽ thấy dưới tấm bảng ấy có che một tấm lều vải 6 cạnh màu xanh, và trong tấm lều có một ni cô xinh đẹp thanh tú, với vẻ mặt hiền lành dễ mến, cùng hai cô chú sa di nhỏ khiêm tốn nhã nhặn ngồi bên cạnh.

Người ta làm sao biết được ba người ấy chính là Ngài Quán Âm cùng Long Nữ, Thiện Tài hóa phép biến thành?

Vừa đúng lúc ấy có một cụ già tay chống gậy, đi đứng khổ sở, khập khiễng bước vào lều, quỳ xuống đất nghe “bịch” một tiếng, nước mắt tuôn xuống dầm dề trên gò má già nua, cầu xin rằng:

Ni sư đại từ đại bi, xin cô trị giùm tôi cái chân què này, nếu không thì mẹ già, vợ yếu và con thơ khó bề sống sót, tôi van cầu ni sư...

Cụ già khóc ngất, khuôn mặt tiều tụy hằn lên những nếp nhăn đau đớn sở khổ khiến ai nhìn cũng phải xót xa thương cảm. Ngài Quán Âm quan sát tình cảnh ấy, trong tâm tự động khởi lên lòng từ bi, vội vàng đỡ ông lão dậy mà hỏi một cách hoà nhã, thân thiết:

– Thưa bác, chân bác sao thế?

– Ôi!

Ông lão thở dài một tiếng và kể lể nguyên do với một giọng nói đẫm lệ.

Số là trấn Phù Du có một ông quan lớn, ỷ có người cậu làm quan Tể Tướng trong triều nên độc ác tàn bạo, coi trời không bằng cái vung, trong chu vi một trăm dặm dưới chân núi Phong Hoàng, không ai là không biết tiếng. Hơn nữa, ông có một thằng con trai, đó là một cậu công tử bụng dạ nham hiểm, chỉ biết chơi bời lêu lổng, trêu hoa ghẹo nguyệt, thật là một tên ác bá khét tiếng một vùng, trăm họ không ai là không oán hận tên nghiệt chủng này và đặt tên cho hắn là “con cọp họ Hoa”.

Ông lão nói trên là một trong những người làm công trong nhà họ Hoa này. Có một buổi tối nọ, “con cọp họ Hoa” mò đến cửa phòng cô em vợ hắn, ông lão ngỡ đâu là kẻ cướp vào nhà, trong cơn hoảng hốt vớ lấy bình hoa ném vào người hắn. Con cọp họ Hoa thẹn quá hóa khùng, bèn đánh đập ông lão một trận chết đi sống lại, từ đó chân ông trở nên tàn phế. Ông quan cha biết con làm chuyện đồi phong bại tục, không những đã không dạy dỗ mà còn trách mắng ông lão làm vỡ bình hoa của mình, rồi không chữa trị bệnh cho ông lão, lại chê ông đi đứng không nhanh nhẹn nữa nên đá ông ra khỏi nhà.

Ngài Quán Âm nghe xong, an ủi rằng:

– Thưa bác, bác đừng buồn khổ lo lắng gì nữa, bần ni sẽ chữa lành chân cho bác.

Long Nữ, Thiện Tài vội dìu ông lão ngồi lên cái ghế gỗ, Ngài Quán Âm dùng tay xoa chỗ bị thương rồi quan sát kỹ lưỡng bệnh tình, xong nắn bóp chữa trị. Không lâu sau, Ngài để cho ông đứng dậy đi thử, ông lão đi vài bước, thấy mình đi đứng dễ dàng nhanh nhẹn như xưa, không còn thấy đau đớn nữa, chẳng khác chi người bình thường. Ông lão bất giác kêu lên:

– Đúng là thần y! Chỉ trong phút chốcni sư đã chữa lành cho tôi cái chân tàn phế cả năm nay rồi!

Nói xong, ông vội quỳ xuống đất khấu đầu lạy tạ không ngừng, bàn tay run run thò vào ngực móc ra một vài đồng bạc lẻ dâng lên cho Ngài Quán Âm. Nhưng Ngài đời nào chịu nhận tiền, vội đỡ ông lão lên nói:

– Bác ơi, không có chi đâu, chữa bệnh cứu đời là bổn phận của bần ni mà!

Trở lại người bị đặt tên là “con cọp họ Hoa”, tên thật của hắn là Hoa Tuấn Phương, lúc ấy đang ở nhà, cùng phu nhân làm bộ ve vãn, nói những lời cợt nhả. Hoa công tử mặt mày sáng sủa, dáng người hiên ngang chững chạc, chỉ có con mắt là để lộ ra một thứ ánh sáng tham lam, dâm đãng. Phu nhân Lâm San Trân tuy ăn mặc sang trọng, trang điểm lộng lẫy, vàng ngọc đeo sáng lòa nhưng khuôn mặt xinh đẹp kia không giấu được nét tàn phá của thời gian, những nếp nhăn nơi đuôi mắt nói lên một cách vô tình rằng tuổi thanh xuân của phu nhân đã bắt đầu qua rồi. Lối trêu ghẹo cợt nhả của Hoa công tử làm cho phu nhân ghê tởm và buồn nôn.

Lúc ấy, cô a hoàn Ngọc Hương mở cửa bước vào phòng thưa rằng:

– Bẩm quan, bẩm phu nhân, có tiểu thư Mỹ Nương đến chơi!

Tiểu thư Mỹ Nương tên thật là Lâm San Mỹ, em ruột của phu nhân Lâm San Trân, là một cô gái nhan sắc mặn mà, da dẻ nõn nà mịn màng, ở Lâm gia phủ cách trấn Phù Dung không xa, cha mẹ đã qua đời lại không có anh em. Phu nhân San Trân mong muốn em gái ở lâu với mình nhưng chuyện không hay xảy ra năm ngoái với anh rể khiến cho Mỹ Nương không bước chân đến Hoa gia từ lâu.

San Trân nghe nói có em gái tới chơi, mừng rỡ vô cùng, vội vàng tiến ra cửa đón chào, nhưng khi Mỹ Nương thấy chị thì nước mắt tuôn như mưa, bi thương thống khổ, nhào vào lòng chị mà kêu ú ớ khiến cho mọi người kinh ngạc.

Hoa Tuấn Phương đứng cách đó không xa, nhìn San Mỹ rồi nhìn qua Ngọc Hương, thở dài mà nói:

– Lạ kìa, làm sao một cô gái trẻ tuổi như thế đột nhiên biến thành câm?

San Trân cũng chất vấn Xảo Nhi, cô a hoàn chuyên theo bầu bạn với Mỹ Nương.

Xảo Nhi quỳ xuống đất run rẩy sợ hãi mà thưa rằng:

– Tội nô tỳ đáng chết! Đêm qua cô nương vừa mới thổi đèn đi nghỉ thì bỗng nhiên có một người đàn bà mang mặt nạ xông vào phòng, cô nương la lên một tiếng rồi bất tỉnh nhân sự. Nô tỳ ở phòng bên cạnh nghe rất rõ, nhưng khi qua đến thì không còn thấy tăm hơi người đàn bà bịt mặt kia nữa. Nô tỳ vội vàng lay tỉnh cô nương, cho cô nương uống chút nước thì cô nương an tĩnh trở lại. Hôm nay sáng sớm, cô nương thấy đau nơi cổ họng, sau đó thì nói không ra tiếng nữa.

San Trân rất ngạc nhiên nhưng thấy em mình cứ ú ớ thì vừa đau lòng vừa lo sợ, ôm em gái vào lòng khóc oà lên khiến ai nấy hoảng hốt, không biết phải làm sao.

Vừa đúng lúc ấy, tên gia đinh của nhà họ Hoa từ phiên chợ trở về, gọi Hoa công tử sang một bên kể lại chuyện có một ni cô xinh đẹp tuyệt trần vừa đến thị trấn của mình, và nhắc đến tài trị bệnh cao siêu của ni cô. Nghe thế công tử mê mẩn, híp tít cả mắt, bèn quay trở về phòng nói với phu nhân:

– Nương tử! A Cẩu mới kể rằng ở ngoài chợ có một vị thần y có thể chữa bệnh, không bệnh nào là không chữa được. Hay là chúng ta đi mời cô ta về đây chữa bệnh cho Mỹ Nương?

San Trân ngừng khóc tức thì, vội vã giục chồng mau ra phố nghênh tiếp thần y về. Hoa công tử và A Cẩu vội chạy ra chợ, thấy ở dưới tấm lều vải xanh có một thiếu nữ cốt cách thanh nhã đoan trang, má đỏ môi hồng, nước da trắng mịn, cử chỉ cao quý, vai khoác một tấm áo bào trắng tinh phủ dài xuống đất như một dòng thác trắng. Đôi mắt cô như hồ nước mùa thu, nhưng vô cùng tinh anh, thâm thuý.

Cả đời Hoa công tử chưa bao giờ thấy một cô gái xinh đẹp dường ấy nên cứ đứng chết trân ở đấy mà nhìn một cách đắm đuối. A Cẩu thấy thái độ chủ nhân như thế vội giật chéo áo của công tử, lúc ấy “con cọp họ Hoa” mới sực tỉnh, lập tức tiến đến chào hỏi.

Ngài Quán Âm đang một mặt bóp lưng cho một bà lão một cách chuyên chú, một mặt hỏi:

– Quý công tử đến đây muốn khám bệnh chăng?

– Không, không, tôi đến đây thỉnh ni sư về...

Hoa gia là một gia đình danh giá, đình viện lầu các hoa lệ khỏi cần nói. Chỉ biết là Ngài Quán Âm được mời đến gian nhà giữa, lập tức khám xét cổ họng của Mỹ Nương, nhận định rằng bệnh của cô là do một chất thuốc gây ra. Ngài rất ngạc nhiên, ngước mắt nhìn quanh một vòng, quan sát chị em họ Lâm và hai cô a hoàn Ngọc Hương và Xảo Nhi đứng bên cạnh, thần thái của mỗi người mỗi khác khiến Ngài hiểu được phần nào mọi sự. Ngài vỗ về cánh tay Mỹ Nương an ủi:

– Tiểu thư đừng lo, bần ni có cách chữa.

Nói xong Ngài lấy ra một cây kim bạc, bắt đầu châm cứu cho Mỹ Nương. Đột nhiên Mỹ Nương bật kêu lên “Chị ơi!” rồi khóc lớn.

Chuyện lạ xảy ra khiến cho cả Hoa gia trên dưới đều bị kinh động, người làm công dập dìu tiến đến bái kiến vị thần y này. Hoa Tuấn Phương rất lấy làm đắc ý, xua tay quát tháo:

– Bay đâu! Mau dọn tiệc rượu ra đây cho ta tạ ơn vị ni sư y thuật cao minh này một cách trọng thể!

Ngài Quán Âm vội vàng lắc đầu từ chối:

– Không nên phí phạm như thế, trà lạt cơm nguội đủ rồi!

Rồi Ngài nói tiếp ngay:

– Trời đã tối, thầy trò bần ni không có chỗ nghỉ đêm, xin quan lớn và phu nhân bố thí cho một chỗ nghỉ nhờ một đêm, không biết có được không?

Long Nữ, Thiện Tài ngầm biết ý Ngài nên cũng lên tiếng cầu xin phụ họa. Dĩ nhiên Hoa Tuấn Phương rất đẹp lòng, vui vẻ trả lời:

– Được! Được! Đừng nói một đêm, chỉ cần ni sư đồng ý tới đây ở thì ở cả đời cũng là điều vinh hạnh cho Hoa gia này!

Phu nhân San Trân nghe thế lườm chồng một cách khinh ghét nhưng Ngài Quán Âm vẫn giữ nét mặt tự nhiên đáp:

A Di Đà Phật! Đa tạ thí chủ!

Ăn cơm tối xong, mọi người phân tán, già trẻ lớn bé đều trở về phòng ngủ của mình. Ba thầy trò ngài Quán Âm về căn phòng nằm ở gian bên phải của căn nhà mà nghỉ ngơi một lúc. Đột nhiên, Ngài Quán Âm như biết trước chuyện gì vội lay Long Nữ, Thiện Tài dậy, ba người bước lên một áng mây lành bay lên không trung, đứng ở phía trên sân vườn Hoa gia mà nhìn xuống, quan sát kỹ luỡng mọi động tĩnh ở phía dưới.

Trong bóng đêm mênh mang, ánh trăng bàng bạc, Hoa Tuấn Phương vừa mới tỉnh cơn say rượu, rời khỏi ghế ngồi rón rén trở về phòng. Nhờ ánh sáng trăng, thấy phu nhân đang say giấc nồng, hắn bèn lẻn ra ngoài đi thẳng tới cái chõng ở gian nhà bên phải, nơi ba thầy trò ngài Quán Âm nghỉ đêm. Nào ngờ cửa chỉ khép hờ, trong phòng không một bóng người. Con cọp họ Hoa như cái bong bóng xì hơi, tức giận vì không ăn được quả tươi đã làm cho mình thèm rỏ dãi cả ngày hôm nay, bèn dứt khoát phóng lao phải theo lao, thu hết can đảm mò đến cửa phòng của Mỹ Nương ở gian nhà bên trái.

Đúng lúc hắn đang mò mẫm tìm con dao nhỏ đã chuẩn bị sẵn trong người để cạy then cửa thì nghe “vèo!” một tiếng, một bóng người mang mặt nạ phi tới như tên bắn. Hoa công tử bị đánh một chưởng ngã lăn xuống đất, đang định la lên cầu cứu thì bị người mang mặt nạ kia đưa tay bịt miệng.

– Con quỷ háo sắc, làm cho cô nương đây hết hồn!

Người bịt mặt nói khẽ. Hoa Tuấn Phương nghe giọng người đàn bà rất quen thuộc, nhìn kỹ thân hình liền hiểu ngay cô ta là ai, bèn hung dữ nói rằng:

– Mi là gì mà dám xen vào chuyện của ta?

– Không xen thì thôi, tôi đi gọi phu nhân dậy.

Hoa Tuấn Phương biết mình đuối lý, không dám làm to chuyện, chỉ đành để cho người đàn bà bịt mặt muốn làm thì làm, ngoan ngoãn đi theo cô ta đến ngọn giả sơn ở vườn hoa sau nhà. Dưới một gốc liễu, người đàn bà nọ như không chờ đợi được nữa, ôm chầm lấy Hoa công tử, dán chặt bộ ngực đẫy đà của mình vào người hắn. Gái lăng loàn gặp quỷ háo sắc, chuyện cẩu thả đương nhiên khó tránh. Hai người ôm nhau lăn xuống đất, chốc chốc có tiếng thì thà thì thầm, chốc chốc vang lên âm thanh dâm đãng lanh lảnh.

– Cưng ơi, nàng đến phòng Mỹ Nương làm gì vậy?

Hoa Tuấn Phương chua chát hỏi.

– Hứ! Chàng là con cọp họ Hoa, chắc bị con yêu tinh ấy hớp hồn nên chưa chịu chừa! Nói cho chàng biết, có thiếp thì không có nó, đừng có mơ tưởng hão huyền!

Nghe thế Hoa công tử kinh dị hỏi:

– Chính nàng hại Mỹ Nương thành người câm phải không? Nàng thật là độc hại!

– Hí hí! Nếu chàng không hồi tỉnh mà cứ tiếp tục trêu hoa ghẹo nguyệt, không nghĩ đến tình vợ chồng không cưới lâu đời của đôi ta thì đừng trách cô nương đây vô tình! Còn cái cô ni cô đã mê hoặc chàng, chàng hãy đuổi ngay ra khỏi cửa cho thiếp!

Ngài Quán Âm nhìn thấy tất cả, nghe thấy tất cả, bèn chắp tay lại lẩm bẩm:

A Di Đà Phật! Nghiệt tội! Nghiệt tội!

*

Như một tấm lụa xanh vô tình che đậy mọi tội ác, màn đêm từ từ lùi bước. Sáng hôm sau, ở sân lớn của vườn nhà Hoa gia mọi sự đều diễn tiến như mọi ngày thường. Người làm công dậy sớm chùi rửa dọn dẹp, đột nhiên nghe từ gian nhà trái có tiếng thét lớn “A!” khiến cho không khí tĩnh mịch của sân vườn bỗng trở nên hỗn loạn. Mọi người chạy túa đến, chỉ thấy cô a hoàn Xảo Nhi mềm nhũn nằm dưới đất, mặt mày xanh mét. Nhìn lên giường thì thấy Mỹ Nương hôn mê bất tỉnh, máu tươi từ đôi mắt tuôn ra lai láng.

Chính trong lúc mọi người đang luống cuống thì vị ni cô hôm qua đã bước tới gần trấn tĩnh:

– Đừng lo, bần ni có thuốc hay.

Nói xong ni cô lấy một viên thuốc màu vàng óng ánh bỏ vào miệng Mỹ Nương, chỉ một lúc sau Mỹ Nương tỉnh dậy nhưng còn rất đau đớn, mở mắt ra không nhìn thấy gì cả.

Hoa Tuấn Phương đứng một bên quát rằng:

– Cô dùng phép phù thủy, yêu ma gì mà mới chữa bệnh câm hôm qua, hôm nay lại biến thành bệnh mù? Bay đâu, mau lôi cô ta ra phủ quan nghiêm trị!

Lời nói vừa dứt, một bầy chó săn tay sai đã nhe răng giương vuốt xông tới. Long NữThiện Tài phất nhẹ bàn tay, không biết tại sao bọn tay sai lại bị đẩy lùi, loạng quạng luống cuống trông thật buồn cười. Ngài Quán Âm nói một cách ung dung, rành mạchkiên định:

– Tạm thời bần ni chưa muốn rời khỏi nơi này, còn cần phải chữa lành cặp mắt của tiểu thư Mỹ Nương.

San Trân vội vàng quỳ xuống đất, khấu đầu nói:

Đa tạ ni sư cứu người trong cơn hiểm nạn, chị em chúng con suốt đời không bao giờ dám quên ơn sâu đức trọng của ni sư. Còn quan nhân nhà con nói lời vô lễ, thỉnh ni sư đừng để ý.

Giải trừ đau khổ của người khác là bổn phận của bần ni.

Nói xong Ngài Quán Âm bước đến bên giường, tiếp tục trị liệu cho Mỹ Nương. Chỉ thấy bàn tay Ngài cách đôi mắt bệnh nhân khoảng ba tấc, miệng lâm râm câu gì, từ lòng bàn tay phóng ra những tia sáng màu vàng rực, đưa tới đưa lui mấy lần, trong khoảnh khắc Mỹ Nương sáng mắt, thấy lại được. Những người đứng tại chỗ chứng kiến được sự việc thần kỳ như thế, không ai là không kinh dị tán thán.

Hoa Tuấn Phương cũng rất lấy làm lạ, nhưng nhớ lại sự việc xảy ra hôm qua ở vườn sau và những lời nói của người đàn bà bịt mặt, bèn tiến lại gần mà nói:

Đa tạ pháp sư, nhưng xin miễn thứ cho tôi, tôi không thể giữ pháp sư ở lại được!

A Di Đà Phật, vậy thì bần ni xin cáo từ.

Ngài Quán Âm đứng dậy rồi bèn nói với chị em họ Lâm rằng:

Phu nhân, tiểu thư xin bảo trọng, chúng ta sẽ có ngày gặp lại!

Nói xong cùng Long Nữ, Thiện Tài chậm rãi ra đi trong niềm tri ân lưu luyến của chị em họ Lâm.

Một vài ngày sau, có một gánh hát rong dọn về đến thị trấn Phù Dung. Gánh hát gồm ba cha con, họ đều tự đàn tự hát, âm nhạc vô cùng mỹ diệu, ai nghe cũng phải khen là tuyệt! Hôm ấy Hoa gia lại treo đèn kết hoa, mời ba cha con đến đàn hát giúp vui. Giọng ca của hai cô gái du dương thanh thúy, lời ca lại cảm động thấu tâm can, điệu vũ thì lại nhẹ nhàng phất phới như tiên nữ, nên chủ tớ Hoa gia ai cũng bị hấp dẫn mê say. “Con cọp họ Hoa” lại mơ tưởng viễn vông, cặp mắt không rời khuôn mặt xinh đẹp, thân người yểu điệu của hai nàng ca nữ, trong phút mê mẩn đến hoa cả mắt, không kềm chế được hắn nhéo đùi của Mỹ Nương đang ngồi bên cạnh. San Mỹ xấu hổ đỏ cả mặt, phu nhân San Trân thì chỉ lo hân thưởng màn kịch, không hề hay biết những gì đang xảy ra chung quanh. Chỉ có cô a hoàn Ngọc Hương là nhìn Hoa công tử đăm đăm, đôi mắt phóng ra những tia ghen hờn.

Tối hôm ấy ba cha con hát rong nghỉ đêm lại ở mái tây. Giữa đêm mây đen cuồn cuộn, sấm chớp ngang trời, sau đó là một trận mưa trút nước. Đột nhiên, một bóng đen bước vào phòng của Mỹ Nương, tiếp đến một bóng đen khác cũng bước sau bén gót.

Khi bóng đen thứ nhất bước vào phòng thì Mỹ Nương đã sợ hãithức giấc rồi.

– Mỹ Nương, ta nhớ nàng muốn chết, đáng lẽ ta phải cưới nàng làm vợ ngay từ đầu!

Nghe tiếng, Mỹ Nương đã đoán ra đây là ông anh rể bất lương. Cô vừa hận vừa xấu hổ, lấy hết sức bình sinh đẩy bóng đen đang xông tới, nhưng sức nhi nữ làm sao đối địch lại với một người hung bạo, trong phút chốc “con cọp họ Hoa” đã ôm chặt lấy San Mỹ. Đúng cái lúc chỉ treo đầu mành ấy, bóng đen thứ hai hung dữ tiến tới nắm lấy con cọp họ Hoa xô sang một bên, quát rằng:

– Đi chỗ khác cho ta!

Cũng ngay lúc ấy, một ánh chớp loé lên, San Mỹ nhìn thấy người mới tới bịt mặt bằng một tấm vải đen, tay cầm một con dao bén, nhắm ngay chính mình mà xông tới. Cô hét lên một tiếng kinh hoàng, ngã xuống bất tỉnh. Hoa công tử vội vàng tiến lên ngăn cản nhưng người bịt mặt nọ sát khí đằng đằng nói rằng:

– Để thiếp đâm chết con yêu tinh này cho chàng đỡ phải ngày thương đêm nhớ!

Đột nhiên một trận cuồng phong nổi dậy, cuộn lấy một cái bình sứ đen, và “xoảng” một tiếng, bình sứ bể tan tành, miểng sứ bắn lên tung tóe bốn phía. Một trong những mảnh sứ bể ấy văng lên trúng ngay vào mắt phải của người bịt mặt. Tuy thế người này vẫn chưa bỏ ý định giết chết Mỹ Nương, một tay bưng con mắt phải đang chảy máu lênh láng, tay kia huơ dao lên xông về phía Mỹ Nương. Hoa Tuấn Phương chen vào giữa, đã không ngăn cản được mà còn bị đâm vào họng, thét lên một tiếng thê thảm, ngã lăn xuống đất. Người bịt mặt cố mở to con mắt trái còn lại, thấy mình đâm nhầm người, thẹn quá hóa khùng, bèn nhổ dao trên họng Hoa công tử chĩa vào ngực tình địch, nhưng làm sao cũng không với tới được Mỹ Nương. Một trận gió mạnh nữa tạt đến khiến người này đầu óc choáng váng, lảo đảo ngã xuống đụng phải cái bàn, con mắt trái không nghiêng không lệch mà lại đâm thẳng xuống góc bàn, máu chảy đầy mặt, bất tỉnh nhân sự.

Cơn mưa thịnh nộ không biết ngừng lại từ bao giờ, một làn ánh sáng bạc ửng lên ở phương đông. Lâm San Mỹ trong lòng hãy còn sợ hãi, mở to đôi mắt hoảng hốt kêu lên:

– Có biến! Cứu tôi với!

Toàn nhà Hoa gia trên dưới nghe tiếng hét đều lật đật ngồi dậy, không kịp sửa soạn, người thì vừa chạy ra vừa cài nút, người thì cứ thế mà lết dép tới. Đến phòng Mỹ Nương, chỉ thấy Hoa công tử cùng với một người đàn bà bịt mặt đang nằm trong vũng máu, ai nấy đều sợ thất thần, còn San Trân thì xỉu ngay tại chỗ. A Cẩu vội vàng lột mặt nạ của người bịt mặt xem là ai, thì ra không ai khác hơn là cô a hoàn Ngọc Hương, khiến mọi người đều kinh dị sững sờ.

Lúc ấy người cha của hai cô ca nữ đưa đến ba viên thuốc quý, bỏ vào miệng vợ chồng họ Hoa cùng Ngọc Hương. Chẳng bao lâu, ba người đều tỉnh lại hết. Ngọc Hương hai tay bưng lấy mắt, đau đớn lăn lộn dưới đất, Hoa Tuấn Phương thì nói không ra tiếng, chỉ biết ú ớ loạn lên.

San Trân quỳ trước mặt ông lão dập đầu cầu xin:

– Thưa cụ, xin cụ làm phước giúp đỡ, cứu quan nhân nhà con.

Dập đầu xuống rồi ngước mắt lên thì đột nhiên thấy cụ già nhân từ kia đã biến thành vị ni cô mấy ngày trước. Người xung quanh thấy thế kinh dị há hốc giương mắt nhìn, họ mới hiểu rằng ba cha con gánh hát rong chính là ba thầy trò vị ni cô hóa phép mà thành.

Ngài Quán Âm nghiêm túc, trang trọng nói rằng:

– Hoa gia có nhiều điều tà ác, đã tạo ra tội nghiệt quá nặng nề. Nhân ác quả ác, nhân thiện quả thiện, tất cả những việc xảy ra hôm nay là do điều tà ác báo ứng mà ra.

Nói xong Ngài chắp hai tay lại mà nói nhẹ “tội nghiệt! tội nghiệt!”

A Cẩu túm lấy Ngọc Hương quát lên:

– Con a đầu khốn khiếp, tại sao mi lại bịt mặt, có phải chính mi đâm công tử không?

Ngọc Hương trấn tĩnh mạnh dạn trả lời:

– Tiểu nữ làm sao dám làm như thế, chính Hoa công tử đến phòng tiểu thư Mỹ Nương mưu đồ bất chánh, tiểu thư không chịu thuận tùng nên lấy dao đâm công tử, con nghe tiếng chạy đến không ngờ cũng bị tiểu thư đâm mù hai mắt rồi còn lấy vải đen bịt mặt. Oan uổng cho con lắm!

Nhưng làm sao lừa dối qua được đôi mắt huệ của ngài Quán Âm! Đêm qua, chuyện gì xảy ra, xảy ra như thế nào Ngài đã biết hết. Hai trận gió lớn thần kỳ kia, là do chính Ngài đã thổi hơi pháp từ miệng ra để cứu Mỹ Nương.

Hoa Tuấn Phương cực lực muốn biện giải nhưng không nói ra được nửa chữ, nóng lòng quá bèn ú ớ loạn lên, mồ hôi từ trên đầu tuôn xuống lả chả. San Trân vừa khổ đau vừa phẫn nộ, trong cơn tức giận, nhìn thấy cây cột, bèn lao tới muốn đâm đầu tự sát nhưng bị ngài Quán Âm tinh mắt nhanh tay chụp lấy ngăn cản.

San Mỹ thấy chị mình quá khổ đau không muốn sống nữa nên vội tiến đến cầu xin:

Pháp sư tôn kính, xin Ngài cứu mạng cho họ lần này!

Ngài Quán Âm đáp:

– Niệm tình Mỹ Nương tâm địa thiện lương, tôi có thể chữa cho mắt cô Ngọc Hương sáng trở lại, và chữa cho Hoa công tử nói lại được. Song với điều kiện là cô Ngọc Hương phải nói rõ ra tiền nhân hậu quả tại sao ba lần làm tội ác như thế, bằng không sẽ không bao giờ có thuốc chữa.

San Trân nhìn chồng có miệng mà không nói được, giận dữ mắng Ngọc Hương:

– Con a đầu tiện tỳ, còn chưa thú thật nữa hay sao? Muốn quan lớn đánh chết hả?

Không còn cách nào khác, Ngọc Hương đành phải thú thật tự sự. Thì ra cô a hoàn Ngọc Hương đã dan díu với Hoa công tử từ lâu nhưng đến khi Mỹ Nương xuất hiện thì bị công tử đối xử lạnh nhạt. Bị lửa ghen thiêu đốt, cô muốn giết chết Mỹ Nương để tiếp tục giấc mộng làm vợ không cưới của Hoa công tử, nên lần đầu đổ thuốc câm vào chén nước, lần thứ hai ném vôi vào mắt và lần thứ ba muốn đâm cho chết, nào ngờ...

Nghe đến đây, mọi người căm phẫn sùng sục, bèn tay đấm chân đá con điếm thối tha mà hằng ngày vẫn làm ra vẻ cao nhã kia. Ngọc Hương rút vào góc phòng, cầu xin tha mạng luôn mồm.

Ngài Quán Âm bình tĩnh nói:

Tội nghiệt đã khai, lẽ ra phải bị trừng phạt nặng nề. Nhưng nay ta niệm tình tiểu thư Mỹ Nương đã có lòng tốt cầu xin cho, nên tha cho mấy người phen này. Nếu không hối cải thì không những bị câm, bị mù mà cả tính mệnh cũng khó bảo toàn.

Nói xong Ngài chắp tay tụng kinh Kim Cang và đọc chú Đại Bi để tiêu tai trừ bệnh cho hai tội nhân. Chẳng bao lâu sau, Hoa Tuấn Phương nói lại được và Ngọc Hương cũng thấy đường lại như cũ. Chủ tớ Hoa gia đều quỳ mọp xuống đất khấu đầu lạy tạ. Hoa Tuấn Phương càng cảm ơn sâu vô tận nên muốn cúng lụa, cúng tiền, tuy nhiên tất cả đều bị ngài Quán Âm cự tuyệt. Hai chị em họ Lâm thì nước mắt đoanh tròng, không nói ra được lòng cảm khái của mình.

Lúc ấy ba thầy trò ngài Quán Âm ra đến giữa sân, bỗng nhiên trên đất bằng bỗng cuộn lên một đám mây trắng, ba người bước lên áng tường vân ấy. Đám mây bay lên không trung rất mau, trong phút chốc ba người xuất hiện chân tướng. Lúc ấy mọi người mới biết vị ni sư kia thật ra là bậc Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm, còn hai cô cậu sa di nhỏ chính là Long NữThiện Tài đồng tử vẫn đứng hai bên phải trái của Ngài Quán Âm. Họ thấy Ngài Quán Âm mặc tấm cà sa trắng, vai khoác chiếc áo khoác dài bằng bạc, đầu đội phong mão kiểu nữ, tóc thả dài, đi chân đất, tay trái cầm hoa sen, tay mặt bắt ấn “dữ nguyện”, khuôn mặt từ bi hiền hậu, đoan trang khả kính, vô cùng trang nghiêm. Ba pháp tướng của ba vị theo từng đóa, từng đóa mây trắng lơ lửng từ từ biến mất.

Mọi người vừa kinh sợ vừa vui mừng, quỳ lạy một cách chân thành, miệng không ngớt niệm thánh hiệu của Ngài. Từ đó về sau, toàn thể Hoa gia đều quy y Phật Pháp, trong nhà có thờ một tấm tranh vẽ pháp tượng “Bạch Y Quán Âm”, sớm tối thắp hương cầu nguyện, thời thời cúng dườngđâu đâu cũng nghe tiếng tụng niệm. Tâm trí họ từ từ khai mở, bước lên con đường đạo làm thiện tích phước.

Hoa công tử nhờ được huân tập Phật Pháp nên chuyên tâm dồi mài kinh sử, về sau được bảng vàng đề tên, ra làm quan thì làm việc chính sự một cách thanh liêm, kính tin Phật Pháp, được mọi người ai ai cũng ủng hộ kính mến. Ngay tại Hoa phủ, trong ngoài mọi người hoà thuận an lành, trên dưới vui vẻ.

Tranh vẽ Ngài Quán Âm hiển hóa được hậu thế đặt tên là “Bạch Y Quán Âm”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14298)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14348)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13266)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14628)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25216)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27858)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26333)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17223)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15907)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22127)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17126)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24889)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21947)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14772)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18007)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12916)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28001)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27162)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20933)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28660)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14729)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13280)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16440)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27221)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16070)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21460)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant