Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Bờ này của Tâm

04 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8070)
5. Bờ này của Tâm

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Biên tập: Minh Thuận - Huệ Nghiêm - Nhuận Liên

Phần I: 
Những bài giảng của thầy

Bờ này của Tâm

(Qua tư tưởng kinh Bảo Tích)

Một triết gia phương Tây nói rằng: Trong tất cả mọi sự kỳ diệu, kỳ diệu nhất vẫn là con người. Ở con người có sự kết hợp hài hoà huyền diệu giữa thể xác và tinh thần, giữa thân thể sinh học diệu kỳ và bộ máy tâm thần mầu nhiệm.

Trong tác phẩm “Sự tiến hóa của loài người”, Darwin chỉ ra một cách khoa học con đường tiến hóa, và ông khẳng định con người là đỉnh cao trong quá trình tiến hóa ấy. Từ tiền đề vật chất tốt đẹp ấy mà con người có bộ máy tâm thần hơn hẳn các loài khác. Bởi thế, con người có một khả năng to lớn có thể làm được nhiều điều mà tưởng chừng không thể làm được. Những triết gia cổ đại phương Đông nói về sự kỳ diệu của tâm: “Tam điểm như tinh tượng, hoành câu tự nguyệt tà, phi mao tùng thử đắc, tố Phật giả do tha”. Bằng thực nghiệm tâm linh, Đức Phật dạy chúng ta con đường tiến hóa của chúng sanh qua mười nấc thang: Địa ngục - Ngạ quỉ - Súc sanh - A tu la - Nhơn - Thiên - Thanh văn - Duyên giác - Bồ tát - Phật.

Thế giới tinh thần không có hình tướng, nhưng thông qua hoạt động ta nhận ra nó. Ví như sóng điện có đầy trong không gian, mắt thường chúng ta không nhìn thấy được, nhưng chỉ cần có máy cat-sét, ti vi thì chúng ta có thể tiếp được làn sóng đó. Tôi lấy một ví dụ nữa dễ hiểu hơn, khi đi tản bộ trên đồi cỏ ở Đà Lạt, bất ngờ gặp nụ cúc vàng lay nhẹ trong gió xuân. Ngang đó thôi, ta nhận ra điều gì? Cái gì giúp ta biết đây là hoa cúc vàng và vẻ đẹp huyền ảo của nụ hoa vàng trong gió xuân? Xin thưa, khả năng ấy là năng lực của tâm. Đó là tánh thấy, tánh biết luôn hiện hữu nơi ta, nhờ vậy mà ta có khả năng nhận thức được thực tiễn hoặc thế giới biểu tượng. Nên kinh thường nói: Sự xoay chuyển trong tứ thánh lục phàm cũng từ tâm này. Phật dạy chúng sanh có hai loại tâm là chơn tâmvọng tâm. Trong buổi pháp thoại hôm nay, tôi xin chia sẻ cùng quý vị các phương diện của vọng tâm qua lời dạy của Phật trong kinh Bảo Tích.

1. Tâm như nước chảy sanh diệt chẳng dừng, hằng chuyển như bộc lưu.

Nước dòng sông thì liên tục chảy. Giọt nước này tiếp nối giọt nước kia không ngừng, tạo thành sự chuyển động của dòng sông. Tâm chúng ta niệm niệm sanh diệt tiếp nối nhau như nước trong dòng sông vậy. Bởi vậy nên biết rằng tâm ta không cố định mà có sự chuyển động tiếp nối. Chính đặc tính chuyển động khả biến này mà chúng ta có thể học hành, tu tập được; có thể nói chuyện này đến chuyện khác được.

Quý vị ngồi quan sát tâm mình thử coi, có phải nó là hoạt động liên tục phải không? Lúc nghĩ đến quá khứ, lúc mơ tưởng tương lai, lúc đuổi theo việc này, lúc nắm lấy việc kia. Sự lưu chuyển của tâm ta như nước chảy không ngừng. Ngày xưa khi Khổng Tử đứng nhìn dòng thác đã thốt lên rằng: “Thiên hà ngôn tại, tứ thời hành yên, vạn vật sanh yên” (chảy mãi thế ư, bốn mùa lưu chuyển, vạn vật sinh sôi). Rõ ràng ông ta cũng ngộ được điều đó.

2. Tâm như ngọn đèn vì có các duyên:

Leonchiep nói: Khi nói đến hoạt động là bao hàm cả chủ thể hoạt động và đối tượng hoạt động. Ở đây, tâm hoạt động thì tâm là chủ thể mà đối tượng là thực tiễn, biểu tượng và khái niệm. Nhà Phật gọi chung là cảnh. Tâm nương cảnh khởi lên, ba hồi thì vui như mở hội, khi thì buồn rũ rượi như cỏ úa… Tâm ta lúc bị các duyên làm chao đảo, ngả nghiêng bên này, ngả nghiêng bên kia giống như ngọn đèn trước gió.

3. Tâm như chớp vì niệm niệm sanh diệt:

Khi mưa thì có chớp lóe, ánh chớp lóe lên rồi tắt, cứ chớp tắt liên tục như thế. Tâm ta buồn, thương, ghét, mến…đưa đến liên tục không ngừng, hết ở trạng thái này sang trạng thái kia tiếp nối thay thế cho nhau như ngọn đèn dầu tiếp nối giọt dầu này đến giọt dầu kia, ngọn lửa này đến ngọn lửa kia sanh diệt không ngừng. Bản chất tâm sanh diệt ấy là vô thường, không có chủ thể cố định; nên nếu ta theo đuổi bám lấy nó cho là mình thì sanh ra khổ đau bất tận. Nếu dừng lại không theo những tâm sanh diệt ấy nữa thì an lành hạnh phúc sẽ tràn về như đêm hết thì ngày xuất hiện liền.

4. Tâm như hư khôngkhách trần nhơ:

Hư không thì rộng lớn vô biên, nơi ấy vạn vật sinh sôi nảy nở. Hư không không có màu sắc và tướng hình, như tâm của ta không dùng mắt để thấy, dùng tai để nghe, nắm bắt bằng tay được, nhưng nó là có thật và rất thiết thực với chúng ta. Trong các bộ luật Đại thừa thường nói, tâm ta vốn xưa là thanh tịnh, nhưng do một niệm bất giác vô minh nổi lên mà có sanh diệt, trở thành chúng sanh. Giống như hư không vốn trong sạch, trở thành ô nhiễm là do vạn vật ở trong nó tạo nên. Ví dụ ở giảng đường này, không khí trong sạch, bất chợt một chiếc xe chở cá chạy ngang qua, mùi tanh xông vào thì làm cho không khí trong phòng bị ô nhiễm.

Tâm chúng sanh thường manh động bị cảnh trần lôi cuốn, đeo đẳng hoặc không thể nào dứt ra được. Bởi vậy chúng ta mới bị trầm luân trong ba cõi sáu đường. Đức Phật và chư Tổ thấy chúng tatrong vòng lẩn quẩn khổ đau quá nhiều, các vị dạy cho chúng ta cách an tâm, hàng phục tâm, điều cốt tử là “tâm bình thường”. Giữ được tâm bình thường tức là đạo.

5. Tâm như khỉ vì tham lục dục

Hình ảnh con khỉ quý vị thấy trong sở thú rồi đấy, có bao giờ nó chịu ngồi yên một chỗ không? Hầu như lúc nào nó cũng nhảy nhót lung tung, mắt láo liên không ngừng. Tâm chúng sanh náo động giống như khỉ, hết đuổi bắt tiền tài, danh vọng uy quyền, đến món ngon vật lạ… Hằng ngày chúng ta sống chạy theo cảnh mà quên mất mình. Ngũ dục thực chấtvô thường, vô ngã nhưng trở thành hấp lực lôi kéo chúng ta đi là bởi bên trong chúng ta đầy dẫy những tâm tham dục, tâm chấp ngã… Chính năng lượng dục vọng này rất to lớn đủ sức lôi chúng ta đi về mục tiêu nó muốn. S.M.Freud, nhà phân tâm học, khi nghiên cứu về vô thức cũng thấy được năng lực vô hình đó. Ông gọi là libido (tính dục). Năng lượng dục vọng này là con dao hai lưỡi, cũng từ nó làm ta đau khổ, cũng từ nó mà ta hạnh phúc nếu biết chuyển hóa.

6. Tâm như họa sư vì hay khởi nhân duyên các nghiệp:

Nguyễn Du rất có lý khi nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thế giới thực tiễn vốn không vui không buồn, có vui buồn là do tâm con người mang vào. Trong Duy thức học nói, chúng sanh thường không sống với chân hiện lượng mà hay chơi với tợ hiện lượng, bởi tâm ta thường hay đèo bòng (đới chất cảnh) nên mới sanh ra khổ. Vậy thì, vui buồn, hạnh phúc, khổ đau… đều do tâm vẽ ra cả. Chàng họa sĩ này vô hình nhưng vẽ ra những điều đau khổ lại là thật. Do tính hay vẽ vời của tâm mà các nghiệp đeo bám lấy ta. Nghiệp (Karma) nghĩa là hành động. Do nghiệp mà có sự khác biệt giữa muôn loài (Tuy các tuỳ nghiệp sở hiện bất đồng - kinh Thập Thiện), một khi khởi nghiệp, thì nghiệp này vừa làm nhân vừa làm duyên cho các nghiệp khác tiếp nối nhau không dứt, nhưng không có chủ thể, không có tác giả thật.

7. Tâm không nhứt định vì theo đuổi các thứ phiền não. Tâm thường độc hành không hai, vì không thể có hai tâm trong cùng một lúc:

Qui luật hoạt động của tâm thứccảm xúctrí tuệ ức chế nhau. Nghĩa là lúc cảm xúc xuất hiện thì ức chế năng lực trí tuệ, hoặc ngược lại. Tuỳ theo mức độ của cảm xúctrí tuệ mà sự ức chế lẫn nhau đến mức độ nào. Cũng theo qui luật đó, khi tâm thiện xuất hiện thì tâm ác lặn mất và ngược lại. Trong một thời gian không thể xuất hiện hai tâm. Bởi vậy khi ta làm việc thiện, nói việc thiện, nghĩ việc thiện hoài thì tâm xấu ác tự nó tiêu mất; giống như cây kiểng mà không tưới nước thì phải chết thôi.

Tuy nhiên, tâm ta không bao giờ thuần nhất một trạng thái mà luôn đuổi bắt theo các thứ phiền não. Phiền não thì nhiều, trong Duy thức nói gọn có 6 đại phiền não và 20 tuỳ phiền não, nên tâm ta ít nhất cũng nằm trong các trạng thái chính đó. Nếu lọt vào một trong những phiền não kể trên thì sướng hay khổ? Tất nhiên là khổ rồi, phải không?

8. Tâm như oan gia vì hay đem đến các khổ não:

 Chúng taoan gia không? Đang thoải mái tự tại vui vẻ tự nhiên nhớ lại chuyện đâu đâu rồi lo nghĩ buồn chán, ăn không ngon, ngủ không yên. Những nỗi buồnsợ hãi ấy quay đi quay lại hoài, sự đeo đẳng dai dẳng khó lòng dứt bỏ được. Đó không là oan gia thì là gì? Phật dạy đừng nhớ tưởng quá khứ, đừng mơ ước tương lai, quá khứ thì không còn, tương lai thì chưa đến, nên sống hết mình với thực tại. Thực tại là nhiệm mầu, sống tốt ở thực tại thì tương lai sẽ an vui. Tất cả mọi thứ trên đời đều vận hành theo qui luật nhân quả mà. Nếu sống được như vậy thì tâm kia không còn là oan gia nữa, nó đã được chuyển hóa thành thân hữu đem đến cho ta nhiều điều tốt lành.

9. Tâm như voi điên đạp các nhà cửa vì hay phá hoại các căn lành:

Voi đã điên rồi thì bất kể thứ gì, nó đạp phá lung tung. Phật ví tâm ác như voi điên phá hoại những ngôi nhà hạnh phúc an lạc. Căn lành là gốc rễ, mầm mống của sự tốt đẹp, thánh thiện, an vui, giải thoát, tỉ lệ nghịch với tâm ác. Bởi vậy, tâm vọng tưởng, tâm điên đảo, tâm giận hờn… cần phải được điều phục. Do vậy nếu khi quí vị có nóng giận thì niệm Phật, tập hít thở hoặc uống một ly nước lạnh vào, rồi đi nơi khác để tâm nguội lại.

10. Tâm như ruồi xanh vì trong bất tịnh cho là tịnh. Tâm như cá nuốt câu vì sống trong khổ não mà tưởng là vui:

Con cá vì cái gì mà mắc câu? Vì ham mồi ngon phải không? Khi đớp mồi rồi, lưỡi câu dính chặt đớn đau không thể nào bứt ra được. Tâm ta chấp chặt vào ngũ dục ở đời, sinh đủ thứ phiền toái khổ đau như sanh, lão, bịnh, tử, khổ; thương yêu xa lìa: khổ; thù oán gặp gỡ: khổ; mong muốn không được: khổ… Thế nhưng chúng sanh vẫn chấp nhận. Vậy mới lạ chớ, phải không? Trong kinh Pháp Hoa ví dụ một hình ảnh rất đau lòng là lũ trẻ vui chơi trong nhà lửa. Vì sao vậy? Bởi chúng sanh lấy cái đó làm sự sống của mình, biết là khổ vẫn cứ lao vào. Như người nghiện xì ke, biết hút chích là tổn tài, là bệnh tật, là chết, nhưng họ vẫn hút chích vì đã dính vào thì khó bứt ra được. Khó chứ không phải là không bỏ được, phải không! Ngũ dục khó bỏ nhưng có người đã bỏ được và họ trở thành Phật thành Thánh.

11. Tâm như chiêm bao vì trong vô ngã tưởng là ngã:

Theo Phật giáo thì ngã chân thậtPhật tánh, là chơn tâm, là hằng hữu không sanh không diệt. Chúng sanh không nhận ra chân ngã này nên chấp huyễn ngã là ngã. Chẳng hạn chấp thân này là mình thật, nhà cửa, xe cộ… là của mình, trong khi mọi thứ ấy đều do duyên sanh, là tạm bợ, là vô thường. Nếu quan sát chiếc lá, ta thấy nới chiếc lá có những yếu tố của nước, đất, gió, mặt trời, mặt trăng…, tách rời những yếu tố ấy ra thì đâu là chiếc lá? Một ví dụ kinh điển mà quý vị thường nghe là tỳ kheo Na Tiên hỏi vua Milanda: Các bánh xe có phải là chiếc xe không? Gọng xe, mui xe, căm xe… có phải là xe không? Tất nhiên là không rồi. Vậy thì chiếc lá, chiếc xe, xét cho cùng không có một chủ thể cố định. Nó cấu thành bởi những yếu tố không phải là nó, do vậy nên vô ngã.

Kinh nói tâm vô thường, thân vô thường, hoàn cảnh vô thường, mọi thứ đều vô thường mà ta chấp là thật, đấy là chiêm bao. Chúng ta mở mắt chiêm bao phải không?

12. Tâm thường tham tiếng như lính đi lâu thích nghe tiếng trống giục. Tâm thường tham sắc như bướm bay vào lửa. Tâm thương tham hương như heo nằm chỗ dơ. Tâm thường tham xúc như ruồi bu đầu:

Theo Phật giáo thì con người gồm có sáu căn, đối tượng của sáu căn là sáu trần.

- Nhãn Sắc

- Nhĩ Thinh

- Tỷ Hương

- Thiệt Vị

- Thân Xúc

- Ý Pháp

Nhưng chủ nhân điều khiển sáu căn đối với sáu trần vẫn là tâm. Đối với sắc, thinh, hương, vị, xúc, con người luôn ưa muốn khó lòng vượt qua được. Chính nó là hấp lực của tâm như con bướm bay vào lửa, như ruồi bu vào đầu, heo tìm đến chỗ dơ, người lính nghe tiếng trống giục.

13. Tâm như giặc dữ vì làm hại người:

Chiến tranh gây ra biết bao cảnh tang thương, chết chóc. Nguyên nhân sâu xa làm động cơ cho chiến tranh đó là tâm tham lam, sân hận, si mê. Một khi ba tâm này nổi lên trong lòng một cách lớn mạnh thì con người không còn nhân tính nữa, vì theo sau nó là sự chết chóc oán thù. Như bọn giặc dữ vậy. Giặc ở ngoài tuy ghê gớm thật nhưng không bằng giặc trong tâm người. Phật dạy: Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng tâm mình.

14. Tâm thường cao thấp vì bị tham sân làm hại:

Tâm thường sanh khi cao lúc thấp bất thường, đôi khi cao thượng tốt đẹp lúc lại bần tiện thấp hèn, có khi con người không ra con người, tất cả đều do tâm tham lam, sân hận mà ra.

Ví dụ anh em ruột, bình thường rất yêu thương nhau, vì một miếng đất mà tranh giành chém giết nhau như báo đã từng đăng đó. Nên biết tác hại to lớn của tham sân mà chúng ta ráng thực tập tu để bớt tham, bớt sân si thì cuộc sống chúng ta sẽ an vui và mọi người cũng bớt khổ.

Qua kinh Bảo Tích, Phật dạy rõ cho chúng ta thấy được các trạng thái đem đến sự tác hại do vọng tâm của chúng sanh, chúng ta ráng thực tập, giữ gìn. Biết tâm là quan trọng, nó làm chủ mọi hành vi tạo tác từ việc lớn đến việc nhỏ. Phật dạy “Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện”, nên chúng ta phải biết điều phục tâm đừng để chạy theo cảnh bên ngoài, phải một lòng sợ thất tâm, (mất tâm) mà cố gắng giữ gìn.

Hằng ngày quý vị nên tập sống với thực tại, đơn giản nhất là khi ta làm việc gì thì biết mình làm việc đó. Như người thợ may phải để ý cây kim, nếu không sẽ dễ bị kim đâm vào tay.

Chúc quý vị vô lượng an lạc.

Giác Tri & Minh Thuận. (lược ghi)

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cưthời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cưthời gian quý báu để người tu hànhđiều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cưTự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổihọc hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19891)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20951)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19322)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40574)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21293)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41115)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24146)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23082)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17876)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27004)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20770)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33663)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21061)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28959)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12713)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25345)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19165)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17532)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25815)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19035)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19014)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18930)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38436)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31283)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18260)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24540)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19466)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17927)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23107)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18044)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32245)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17400)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16096)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18580)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20792)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18095)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20135)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14916)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20942)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15077)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15786)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12951)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14524)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14936)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29442)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14543)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant