BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần III:
Những bài
viết về thầy
Còn
mãi bóng hình
Cũng
như mọi ngày, mỗi khi chiều xuống, tôi lại một mình dạo
bước giữa vườn hoa trong khuôn viên chùa, nhìn ngắm những
đóa hoa trong ánh hoàng hôn và cảm thấy lòng mình nao nao kỳ
lạ...
Những
đóa hoa màu trắng, màu vàng, màu tím... thiết tha, lặng thầm
dâng hết sắc hương làm đẹp cho đời, lúc nào cũng hồn
nhiên nở hết mình, vắt hết sức dâng đời mà không cần
biết có ai người đang cảm nhận hay không. Thật là cao quý
biết bao! Lời của một bài nhạc tôi nghe tự lúc nào, giờ
bỗng trỗi dậy bên tai: “...Thầy là bóng cây che mát chúng
con, thầy là ánh sáng dắt dìu lòng son, thầy là con thuyền
thanh lương đưa chúng con đến bờ thơm hương...” làm tôi
da diết nhớ về thầy...
Cũng
như những bông hoa sân chùa này. Thầy đã một đời hy sinh
cho sứ mệnh hoằng pháp, nhất là cho thế hệ tăng ni trẻ
chúng con.
Con
nhớ thầy mỗi khi lên bục giảng, lời pháp đầu tiên là
nụ cười thật nồng ấm, đã tạo cho chúng con một nghị
lực để vươn lên trong cuộc sống. Những pháp âm chân thật
đầy tình thương vẫn còn văng vẵng đâu đây, nào là kinh
Di Giáo, kinh Di Ðà, kinh Tứ Thập Nhị Chương... những bài
kinh dẫu ngắn gọn nhưng thầy đã khéo léo triển khai đưa
vào cuộc sống thực tiễn cho chúng con làm kim chỉ nam tu tập.
Những lời vàng ngọc ấy đến hôm nay con mới thấy quý giá
làm sao!
Thầy
ơi! hơn bao giờ hết, lúc này con rất muốn được thầy gõ
nhẹ trên đầu, gõ nhẹ vào trí não cho con bừng tỉnh cơn
mê. Mỗi khi thầy rảo bước xuống lớp, thấy thầy gần
đến con đã chuẩn bị tinh thần để nói lên những câu tinh
nghịch đại khái như: “Sư phụ hôm nay mặc áo đẹp quá”,
vậy là bị gõ lên đầu một cái; “Sư phụ mang dép mới
kìa”... cứ như thế, mỗi lần nói lại được thầy xoa
đảnh thọ ký. Những cử chỉ thân thiện ấy khiến cho con
cảm thấy tình cảm thầy trò thật thiêng liêng mà gần gũi
biết bao!
Nhớ
những lần chúng con đến thăm thầy, không lúc nào thầy quên
dặn dò chúng con phải cố gắng tu học cho xứng đáng là
vị tu sĩ. Nhất là tăng ni trẻ, trước những phiền toái,
phải có sự nổ lực tự thân, đừng để những chuyện không
hay xảy ra sẽ ảnh hưởng đến đời sống tu tập của mình.
Còn
và còn rất nhiều những lời dạy, những kỹ niệm giữa
thầy trò thật cao đẹp, chúng con không sao kể hết được.
Trong lòng chúng con từng ngày từng giờ vẫn thì thầm nhắc
đền thầy, đến một con người mang tâm nguyện hoằng pháp
lợi tha thật sâu nặng. Cuộc đời của thầy sống là để
cho thế hệ tăng ni, phật tử chúng con mà không một lời
than trách. Thầy luôn hướng cho chúng con một tương lai tươi
sáng vì đạo pháp và dân tộc. Thầy luôn dõi theo bước chúng
con. Mỗi khi vấp ngã đều có thầy nâng bước cho chúng con
đứng dậy. Cuộc đời thầy sống là thế đó, chúng con chưa
kịp đền trả thâm ân, vậy mà thầy vội bước ra đi. Thầy
có hay ở nơi này đôi cánh chúng con vẫn còn yếu mềm lắm,
chưa thể tự nâng được thân mình.
Thế
là hết, còn đâu nữa hình bóng người thầy khả kính! Thầy
có biết mỗi lần ban hoằng pháp tổ chức lễ, chúng con đứng
làm hàng rào đón rước chư tôn đức, con lại lặng nhìn
từng hình bóng chư tôn đi qua, rồi con lại hụt hẩng khi
đã hết người qua mà lại thiếu bóng hình thầy. Nghe
những lời giới thiệu, dẫn chương trình vang lên con lại
ngỡ là thầy...
Hôm
nay những hình ảnh, pháp âm của thầy tuy không còn hiện
hữu trên thế gian này nhưng con vẫn tin rằng pháp thân thầy
vẫn tỏa rạng muôn nơi, vẫn còn dõi theo bước chúng con
đi.
Hướng
vọng về thầy, chúng con chỉ biết tự xem mình là những
kiến trúc sư tự xây dựng đời mình, giữ gìn giới luật,
giữ gìn tam nghiệp, sống đời phạm hạnh, thao thức việc
tu học trong từng sát na. Ngưỡng mong giác linh thầy được
mỉm cười nơi miền lạc cảnh.
Lạy
Thầy! Cho chúng con lần cuối gọi lên hai tiếng “Sư Phụ”
và xin hướng vọng về thầy bằng tất cả tấm lòng thành
kính trọng ân. Dẫu không gian có đổi đời, thời gian như
gió thoảng nhưng bóng hình thầy trong chúng con vẫn mãi đượm
hương.
Chúc
Hiếu
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.