Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Chú điệu chùa Phước Lâm

04 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 7935)
5. Chú điệu chùa Phước Lâm

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH

Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu
Ðồng tác giả:
Thu Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo

Chú điệu chùa Phước Lâm

Bắt đầu đi vào nề nếp sinh hoạt của chùa. Buổi sớm, hết mấy thầy trò thức dậy công phu rồi tập thể dục. Hôm nào cũng vậy, dẫu không cần áo lễ tươm tất, cứ quần áo tập thể dục như vậy, cả chùa đều phải lên chánh điện chắp tay đọc lời phát nguyện rất nghiêm trang: Nguyện trọn đời hiến thân cho Ðạo để phục vụ Chánh Pháp, phục vụ chúng sanh. Chỗ nào Chánh Pháp cần, con đến; chỗ nào chúng sanh cần, con đi. Chẳng kể gian lao, chẳng nề khó nhọc

.... Sau đó các chú đi bộ đến trường làng để học. Buổi chiều ở chùa thầy dạy. Sợ nhất là môn học Huấn Mông, mỗi ngày học từ ba đến bảy chữ tùy theo đứa học trước học sau. Mỗi tuần thầy đều bắt viết lại để kiểm tra, cứ sai một chữ là bị phạt một roi. Cây roi mà sư huynh Chơn An đặt tên là Ðả Thần Tiên hầu như không tuần nào là không “viếng thăm” mấy cái mông các chú. 

Mỗi khi thầy đi vắng là cả đám điệu được nghỉ buổi học Hán văn, tha hồ vui chơi tự do, thoải mái. Hôm nay trời mưa, không ra ngoài chạy giỡn được, không biết làm gì, mấy chú tụ tập lại chơi trò vật tay, chơi ăn gian rồi cải nhau ỏm tỏi. Sư huynh Chơn An đang nằm học kinh, thấy vậy bèn gọi:

- Ðứa nào nghe kể chuyện Tề Thiên hông?

- N..g..h..e..! – Cả đám reo lên mừng rỡ, chạy ào lại, xô vào người sư huynh. Chơn An bật dậy, dàn xếp đám nhốn nháo:

- Ngồi im đàng hoàng, huynh kể. Bữa hổm tới đâu rồi?

- Tới chỗ Tề Thiên khoe cái áo cà sa với Kim Trì trưởng lão...

- Ừa, Lão viện chủ thấy áo quí quá bèn sanh tâm chiếm đoạt. Lão mượn áo cất đi rồi sai đệ tử trong chùa nửa đêm chất củi đốt phòng thầy trò Ðường Tăng. Tề Thiên thấy những người này dã tâm ác quá nên tương kế tựu kế, bày trò gậy ông đập lưng ông, bèn đằng vân lên trời mượn cái tháp chắn lửa, đem về che một mình thầy Tam Tạng lại, còn thì để cho đám người kia đốt phòng chơi, cháy một phòng chưa đã, Tề Thiên liếng khỉ thổi thêm gió phù phù... cho lửa cháy lan hết cả chùa. Lửa cháy phừng phừng không dập tắt nổi, lão viện chủ và đám đệ tử chạy quắn đít!

- Ha ... ha... Ðáng đời! Cháy cho chết mấy lão tham lam, ăn cắp...ha.. ha...

Cả đám nhảy lên cồng cồng, reo hò vật nhau ngã lăn lóc. Bỗng Chơn Phước nói lớn:

- Hay mình chơi trò đóng giả Tề Thiên đi.

Cả đám nhao nhao:

- Phải rồi, phải rồi, chơi đi...

Vậy là phân công: Chơn Ðức làm Tề Thiên, Chơn Hòa làm Trư Bát Giới, Chơn Hậu làm Sa Tăng, và Chơn Thanh làm Tam Tạng, còn Chơn Nghĩa làm con ngựa. Con ngựa lấy bốn cái miễng vùa, xỏ lỗ cột vô tay chân làm móng. Ngựa Chơn Nghĩa bò bằng miễng vùa nghe lộp cộp, cõng “Ðường Tăng” Chơn Thanh trên lưng. Ngựa ngẫu hứng hất thầy văng ngã lăn cù, cả bọn cười ầm ĩ rồi la hét rân trời! “Ðạo diễn” Chơn An mệt hết hơi vì đám diễn viên phá bĩnh cứ diễn những trò không có trong “kịch bản”. 

Sư huynh Chơn An đi học, những ngày nghỉ huynh thường về chùa thăm thầy. Huynh có rất nhiều chuyện để kể. Có lần huynh kể chuyện Thạch Sùng. Huynh kể hay đến nỗi cả đám đều thấy ghét Thạch Sùng, ghét đến mức nảy ra “sáng kiến”: diệt thằn lằn! Vậy là cả bọn lấy dây thun đi tìm thằn lằn mà bắn. Tội nghiệp mấy chú thằn lằn trong chùa hôm ấy gặp phải nạn kiếp, lớn nhỏ cả bầy - dù thằn lằn xám ở nhà bếp hay thằn lằn vàng trên chánh điện - đều bị săn lùng ráo riết. Hầu hết từ bị thương đến ngắc ngoải, đuôi không rụng thì cũng móp mỏ, oằn lưng... Hôm đó, thầy gọi cả đám vào phòng, bắt đứng thành hai hàng rồi nói:

- Các con bắn giỏi quá ha? 

Thầy tréo hai tay sau lưng, đi tới đi lui trước hai hàng “tội phạm”, gương mặt thầy có vẽ “bí hiểm” làm sao! Cả đám nghe thầy “khen” mà tim đập thình thịch! Thầy dừng lại trước mặt từng đứa, hỏi: 

- Con bắn trúng ở chỗ nào?

Mỗi đứa lần lượt trả lời, đứa bắn trúng đầu, đứa bắn trúng cổ, trúng lưng, trúng đuôi.v..v... Sau đó thầy bảo cả đám cởi hết quần áo ra, đứng áp vô tường ôm cột như con thằn thằn, rồi bắt từng đứa thay phiên nhau, đứa này lấy thun bắn đứa kia ba chục cái thật mạnh vào đúng vị trí mà đứa đó đã bắn trúng thằn lằn. Phải kéo căng sợi thun, bắn hết ga kêu cái bụp vào người đau điếng nhảy dựng mới kể, bắn nhẹ là không tính, đếm lại. Chơn Thanh thưa với thầy là chỉ bắn dọa chớ không bắn trúng. Thầy bảo chú khỏi quay mặt vô tường mà quay mặt ra, đứng nhìn cảnh các bạn chịu hình phạt, xong rồi thầy đích thân cầm cọng thun đi lại kê ngắm thẳng vào mũi chú, nhưng bắn cái chóc vào vách tường sát bên lỗ tai. Nảy giờ nhìn “thảm cảnh” rùng rợn, chú đã sợ thất kinh hồn vía, mồ hôi chảy ròng ròng, da gà da vịt nổi cứng cả người, giờ tới lượt mình, nghe tiếng dây thun xé gió nả cái chát vô tường, chú điếng hồn nhắm mắt lại khóc thét! Thầy ngừng tay hỏi:

- Không trúng mà sao khóc?

- Dạ... con sợ... - chú mếu máo.

- Sợ nhiều không?

- Dạ... sợ dữ lắm! Sợ dữ lắm thầy ơi... - giọng chú run lập bập líu cả lưỡi.

- Con sợ sao thì thằn lằn nó cũng sợ vậy. Mai mốt còn bắn thằn lằn nữa thôi?

- Dạ thôi, dạ thôi, con hổng dám vậy nữa! – Chú nức nở.

Cả đám đỏ cả lưng, sưng cả đít, đầu cổ bỏng rát, không dám khóc lớn, dắt nhau lủi thủi theo sư huynh Chơn Hiền đi xức dầu vô chỗ bị bắn. Sư huynh vừa xức dầu cho cả đám vừa khịt khịt mũi cố kềm cái sống mũi cay cay...! Lúc mặc áo cho Chơn Thanh, thấy áo chú bị rách một lỗ, huynh đi lấy kim chỉ ra vá lại cho chú rồi mới mặc vào. Vỗ về cả đám:

- Mai mốt đừng chơi dại vậy nữa nghen!

Mà nào có “đừng” được. Vài hôm sau thầy đi vắng, cả đám lại bài ra trò đi đào dế đá. Trận đó lại cũng bị thầy phạt kiểu như trước, mấy cái đầu trọc sưng vù vì phải làm dế đá nhau!

Phước Lâm, vui nhất là ngày có ba ở quê lên thăm. Ba đi với chú sáu - ba của Chơn Ðạt. Thời chiến tranh, đường xá lại xa xôi, từ quê lên phải đi mấy chặng xe. Hai người cha xách lên nào bắp, nào khoai, nào bánh tét nhưn chuối.v..v... Cầm đòn bánh tét do má gói, chú bật khóc. Má thương chú nhiều lắm, lần nào cũng đòi đi, nhưng nhà không thể đi hai người vì sợ tốn tiền xe. Má dành dụm, gói ghém tất cả những món gì chú thích, gởi theo ba kèm những giọt nước mắt. Có lần má lên thăm, hỏi chú có bị thầy đánh đòn không, chú nói có. Nghe con trả lời một cách nhẹ nhàng mà lòng má đau thắt, nước mắt tự nhiên tuôn ra không lau kịp! Chú hoảng hồn, không ngờ là má lại khóc dữ như vậy. Chuyện bị đòn ở đây là thường. Chơn Ðức đứng gần đó, thấy má chú khóc, bật nói: “ Ở đây đứa nào không bị đòn mà thím khóc? Ðứa nào hổng bị đòn là thành Phật rồi! ”. Chơn Ðức kéo má lại nói nhỏ: “Ðố thím ở đây quần áo tụi con rách chỗ nào trước?” Má lắc đầu, Chơn Ðức nói: “ Rách đít! Bị roi cạp liền liền, mau rách lắm!”. Má bật cười, lau nước mắt và kéo Chơn Ðức vào lòng, định giở lên coi thử, nhưng Chơn Ðức vùng chạy trớt, để lại một tràng cười ngất: “Bộ thím tính đi tìm kho báu hả? Cái mông của con là cái bản đồ kho báu quí lắm, bí hiểm vô cùng, đường dọc đường ngang rối còn hơn ổ tám chục đời con nhện nữa đó!”... Nói xong, chú thoắt cái tót lên ngọn cây bưởi. Chơn Thanh an ủi má: “Chú Ðức phá trời thần, lại làm biếng học nên mới bị đòn nhiều, con ít bị đòn lắm, má đừng lo cho con”. Nghe chú nói vậy, má mới yên bụng.

Ba lên thăm ở chơi đôi ba ngày, những ngày ấy chú càng cố gắng học thật tốt, thật ngoan để không bị sư phụ nhắc nhở.Chú sung sướng nhất là lúc ba hỏi thăm về chú, thầy gật gật đầu: “nó cũng được...” Chỉ bấy nhiêu lời thôi mà chú hãnh diện lắm, chú nghĩ mình đã làm cho ba vui. Chú đem những quyển tập học ra cho ba coi, toàn những điểm và lời phê tốt. Ba vỗ vỗ vào lưng chú, rồi ôm lấy chú, nói: “Con ráng học giỏi, ở tu với thầy, đừng có quậy, bị đòn đau lắm nghen con...”. Nói là nói vậy chớ ba thừa biết là chú rất ngoan hiền. Ở nhà ba má chưa từng bao giờ đánh chú một roi.Tan học ở trường là chú chạy thật nhanh về để có thời gian ở bên ba nhiều nhiều một chút. Thà không lên thăm thì còn nhớ ít, ba lên thăm về rồi là mấy ngày sau chú còn ngẩn ngơ. Ðưa ba ra bến xe lam về quê, chú đứng nhìn theo cho đến khi đám bụi khói sau xe tan hết mà nước mắt vẫn còn rớt. Vậy mà khi về chùa, sư huynh Chơn Hiền hỏi nhỏ: “Có muốn theo ba về quê, nghỉ tu luôn hông?” thì chú đáp: “Em nhớ má nhớ ba lắm, nhưng em nói là em theo thầy tu rồi, dù gì đi nữa cũng không bỏ tu mà về.” Chơn Hiền cười, vuốt đầu chú và nói: “Giỏi! Nhớ vậy nghen”. Rồi hai huynh đệ ngoéo tay, cười toe toét. Không hiểu từ lúc nào thầy đã đứng bên cánh cửa, nhìn ra thấy cảnh đó, chắc thầy cũng đoán được anh em chú thì thào với nhau điều gì. Gương mặt thầy xúc động và lộ rõ sự hài lòng. Thấy chú quay qua bắt gặp, thầy im lặng đi vào phòng. Nhìn theo dáng thầy, không hiểu sao trong lòng chú trổi lên một niềm thương kính kỳ lạ. Chú nghĩ bụng: không bao giờ chú bỏ thầy. 

Năm 1964, học xong chương trình gia giáo, tinh thông hai thời công phu và bốn quyển Luật bằng chữ Hán, thầy quyết định đưa chú xuống học lớp Sơ đẳng Phật học ở chùa Phổ Quang. Những ngày hành điệu ở Phước Lâm đã qua, lưu lại trong chú biết bao là kỷ niệm. Làm sao quên được những đêm gần tết nhớ nhà “khóc phong trào”, một đứa thút thít là cả dãy sùi sụt. Có lần, sau một trận khóc tập thể, đám trẻ ngủ say vùi, đạp rớt cả Chơn Ðạt – chú nhỏ nhất – xuống đất, Chơn Ðạt lồm cồm bò lên, bộ ván cao, vừa té đau giật mình nên cứ leo lên rớt xuống, chú bật khóc hu hu... cả đám thức giấc, nghe tiếng lại tưởng là có... khóc đợt hai, bèn hưởng ứng (!). Lần này vì người khởi xướng khóc hơi lớn nên dàn đồng ca cũng theo đà nâng cao âm lượng, sư huynh Chơn Hiền từ bộ ván bên kia giật mình thức giấc, hỏi: “Chuyện gì vậy?” Chơn Ðạt bệu bạo: “Mấy ảnh đạp con té xuống đất đau quá sư huynh ơi!” Cả đám vỡ lẽ, nín khóc, lại quay qua rúc rích cười!... 

Rồi những ngày học bài chưa thuộc, ham chơi, bị thầy đánh đòn. Cây đả thần tiên của thầy sao mà nó đau chết điếng! Những buổi tụng kinh lễ Phật lắng vào tiềm thức, thành thói quen. Mái chùa Phước Lâm trở nên thân thuộc, đi vào ký ức tuổi thơ của chú còn đậm nét hơn cả ngôi nhà nơi chú sinh ra. Hình ảnh vị thầy lưu dấu rất rõ trong tâm tưởng. Thầy đã cho chú những bài học quí giá nhất mà sau này đi xa, lớn lên, thu nhận đệ tử rồi chú mới hiểu được hết.

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cưthời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cưthời gian quý báu để người tu hànhđiều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cưTự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổihọc hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26217)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21627)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23406)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14726)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12953)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19831)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13819)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22778)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11987)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12426)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24051)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13735)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21090)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25653)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19248)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23238)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21405)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18331)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13988)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15461)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17878)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21965)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17544)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28074)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17159)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22624)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28236)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14015)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17063)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22312)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14165)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21494)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20831)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28531)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15064)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26599)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19292)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31610)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30657)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21025)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26225)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23583)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25622)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25397)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19732)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18490)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17798)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19065)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant