Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 8 – Chuyển động Rút vào

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9778)
Đối thoại 8 – Chuyển động Rút vào

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 8

CHUYỂN ĐỘNG RÚT VÀO

New Delhi, ngày 26 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Tôi muốn hỏi anh về chuyển động chảy vào, một trạng thái trong đó có một rút vào của thấy, nghe và những năng lượng của dục vọng. Trong Yoga-sutra, có một từ ngữ ‘parivritti’, mà định nghĩa trạng thái khi suy nghĩ quay trở lại vào chính nó. Liệu có một trạng thái như sự rút vào của những giác quan đang trôi chảy phía bên ngoài và của suy nghĩ đang quay lại vào chính nó.

Krishnamurti: Giống như một chiếc găng tay được lật mặt trong ra ngoài? Bạn đang nói rằng suy nghĩ đang tự nhìn vào chính nó, hay đang tự nuốt chửng chính nó, là chuyển động chảy vào?

P: Điều gì được định nghĩa bởi từ ngữ, nội dung của từ ngữ, là một vấn đề của sự trải nghiệm.

Krishnamurti: Bạn đang hỏi, liệu có một trạng thái mà trong đó nghe, thấy và những năng lượng thuộc giác quan tự rút vào một và có một chuyển động lùi vào? Bạn có ý gì qua từ ngữ lùi vào?

 Liệu bạn đang nói rằng nghe, thấy và những năng lượng thuộc giác quan đang rút vào mà không có đang thúc đẩy phía bên ngoài?

P: Chuyển động thông thường của hai mắt, hai tai và những năng lượng thuộc giác quan là một chuyển động phía bên ngoài, được kết nối đến mục tiêu. Liệu có thể có một giải thoát của những giác quan khỏi mục tiêu và một rút vào của những giác quan?

Krishnamurti: Tôi không hiểu liệu trong đang rút vào, không đang nghe, không đang thấy và năng lượng thuộc giác quan không đang lan rộng, không có một trạng thái nơi có đang nghe âm thanh, đang thấy mọi thứ; và vẫn vậy một trạng thái hoàn toàn yên lặng, một trạng thái của được rút vào, một trạng thái nơi không có ham muốn.

P: Nó không là sự kiềm chế ham muốn.

Krishnamurti: Liệu có một trạng thái nơi có đang nghe âm thanh, hai mắt đang thấy, những mục tiêu đang tồn tại, và tuy nhiên lại không có sự ham muốn thuộc giác quan? Tôi nghĩ có một trạng thái như thế. Một trạng thái nơi có cảm xúc, tuy nhiên lại không có sự ham muốn. Không phải rằng người ta đã bị già nua, mất đi sinh lực, nhưng không có sự ham muốnham muốn là thấy, sờ chạm, cảm giác và từ cảm giác đó, mong muốn sở hữu.

P: Điều gì xảy ra cho tiến hành của nghe khi không có đặt tên?

Krishnamurti: Bạn nghe tiếng còi đó? Có sự rung động của âm thanh và sự diễn giải xảy ra khi bạn nghe tiếng còi. Lúc này liệu bạn có thể lắng nghe nó mà không có bất kỳ chuyển động của ký ức như suy nghĩ? Liệu bạn có thể chỉ nghe âm thanh? Liệu có thể không-hình ảnh, không-đặt tên, không-diễn giải? Liệu có thể chỉ có âm thanh? Đó là tất cả. Và âm thanh từ yên lặng. Bởi vì hoạt động của sự suy nghĩ đã kết thúc, có một nghe âm thanh từ trống không. Và trong cùng cách, liệu có thể có một đang thấy từ trống không? Tôi thấy bạn, tôi thấy cái chai đó; không có hình ảnh, không có sự liên tưởng hay sự chuyển động của suy nghĩ, bởi vì không có sự hình thành hình ảnh. Vậy là từ trống không thực sự, yên lặng thực sự, có một đang thấy. Đó là điều gì bạn có ý khi nói rút vào của những giác quan?

P: Tôi đang tự vấn từ những ngữ cảnh. Ở Trung hoa và Ấn độ, sự rút vào được coi là quan trọng.

Krishnamurti: Điều đó đơn giản. Bạn đang hỏi, liệu bạn nhìn vào một người phụ nữ hay một người đàn ông hay một vật đẹp đẽ mà không có ham muốn, kiếm được hay phản ứng? Điều đó dễ dàng.

P: Nó dễ dàng đối với anh. Hãy thấy sự khó khăn của chúng tôi.

Krishnamurti: Tôi thấy một người đàn bà, một chiếc xe hơi, một đứa trẻ, một vật đẹp và vân vân. Liệu nó có thể được quan sát mà không có bất kỳ chuyển động của kiếm được hay loại bỏ? Nó rất đơn giản. Cũng giống như vậy cho thấy và lắng nghe.

Tôi nghĩ chúng là một chuyển động, không phải những chuyển động tách rời. Mặc dù những dụng cụ của nhận biết và nghe là tách rời, tất cả chúng đều là một chuyển động.

P: Ham muốn đã hiện diện trước Thượng đế; thậm chí trước khi con người hiện diện. Sự thúc đẩy thuộc sinh học, sự thôi thúc được đặt nền tảng trên ham muốn. Làm thế nào anh tiếp nhận ham muốn mà có lực thúc đẩy riêng của nó và nói nó không hiện diện?

Krishnamurti: Chúng ta hãy rõ ràng. Tôi thấy một chiếc xe hơi đẹp, một chiếc xe đẹp thực sự –

P: Chúng ta hãy nói tôi đang thương yêu say đắm. Tôi bị vật vã, bị hành hạ bởi sự ham muốn đó. Liệu tôi có thể thấy con người đó mà không có sự ham muốn đang vận hành.

Krishnamurti: Bạn đang cố gắng hỏi điều gì vậy?

P: Liệu có một rút vào thực sự của sự nhận biết thuộc giác quan?

Krishnamurti: Tôi không biết liệu chúng ta có ý cùng sự việc?

P: Chiếc xe hơi và có lẽ thậm chỉ cả người phụ nữ không thể được nhìn thấy mà không đặt tên. Nhưng chúng tôi bị chất đầy những câu hỏi, chất đầy những vấn đề của đặt tên. Nó không đơn giản.

Krishnamurti: Tôi tự hỏi liệu vấn đề của đặt tên không liên quan đến hiểu biết.

P: Thưa anh, một đứa trẻ không có hiểu biếttuy nhiên việc đặt tên là một phản ứng tự nhiên. Tôi đang thâm nhập bản chất của chuyển động bên trong này.

Krishnamurti: Tôi không chắc rằng tôi hiểu rõ điều gì bạn đang cố gắng nói. Có rút vào của những ham muốn thuộc giác quan và sự thành tựu. Tại sao bạn sử dụng từ ngữ ‘phía bên trong’?

P: Có những luyện tập để khoét sâu vào bên trong. Bằng hai mắt và hai tai khép lại, anh có thể khoét sâu vào bên trong? Liệu có bất kỳ giá trị nào cho việc khoét sâu?

Krishnamurti: Vâng, dứt khoát.

 Điều gì bạn gọi khoét sâu vào bên trong là nhắm hai mắt của bạn lại, bịt hai tai của bạn lại; trong trạng thái đó có một khoét sâu hay liệu có một kết thúc của mọi chuyển động, mà xảy ra như thể bạn đang khoét sâu vào? Khi bạn thực sự bịt kín hai mắt và hai tai của bạn, không có chuyển động bên trong hay bên ngoài, như sự ham muốn đang đòi hỏi đạt được cùng tất cả những thất vọng của nó; khi điều đó xảy ra, có sự yên lặng hoàn toàn. Khoảnh khắc bạn sử dụng từ ngữ ‘khoét sâu vào bên trong’, điều đó hàm ý sự phân hai.

P: Anh nghe tiếng còi đó. Đối với anh không có âm thanh gì cả trong nó?

Krishnamurti: Không.

P: Quả là lạ lùng. Đối với anh không có âm thanh. Khi anh bịt kín hai tai của anh, liệu không có âm thanh phía bên trong, tách khỏi anh? Chúng tôi nghe một âm thanh phía bên trong, một âm lượng của nó mà ở bên trong chúng tôi. Anh không nghe nó sao? (Krishnamurti bịt hai mắt và hai tai của anh.)

Krishnamurti: Không. Nhưng người ta phải rõ ràng. Khi hai mắt được nhắm lại, người ta thường thấy những cái đốm. Nếu người ta quan sát những cái đốm đó, chúng biến mất.

P: Liệu không có một dãn nở, một co rút?

Krishnamurti: Không có gì cả. Khi tôi nhắm hai mắt của tôi lại, tuyệt đối không có chuyển động thuộc bất kỳ loại nào.

P: Điều đó có nghĩa toàn ý thức của anh là khác hẳn. Khi tôi nhắm hai mắt của tôi lại, có quá nhiều khuôn mẫu ở đó. Đối với anh, không có chuyển động của âm thanh hay khuôn mẫu.

Krishnamurti: Đó là lý do tại sao tôi muốn thâm nhập câu hỏi về hiểu biết này. Con người này đã không đọc Yoga-sutras và những quyển sách tôn giáo, và đối với anh ta chỉ có một trống không hoàn toàn.

P: Đó không phải bởi vì anh ta đã không đọc bất kỳ quyển sách tôn giáo nào.

Krishnamurti: Không có sự can thiệp của hiểu biết

P: Cùng hiện tượng như thế sẽ không xảy ra cho bất kỳ người nào mà dốt nát về văn chương tôn giáo. Nó không thể xảy ra cho một người cộng sản.

 

Krishnamurti: Chính là sự hiểu biết như khuôn mẫu mà can thiệp. Khuôn mẫu được tạo ra bởi sự suy nghĩ, sự trải nghiệm. Khi không có sự can thiệp của hiểu biết, vậy thì cái gì ở đó? Có sự yên lặng tuyệt đối – hai mắt, hai tai và ham muốn – không có chuyển động. Tại sao bạn dựng lên điều này như cái gì đó đặc biệt? Con người bị trói buộc trong liên tưởng, ý tưởng, những suy nghĩ, trong những khuôn mẫu, một con người như thế không có một cái trí trống không.

P: Điều gì anh nói có giá trị. Có nhiều lần khi điều gì anh nói có giá trị trong tôi.

Krishnamurti: Quan điểm của tôi là, những người mà nói về chuyển động phía bên trong, liệu họ nhận biết được bản chất phân hai của nó?

P: Họ chắc đã nhận biết được. Yoga-sutras nói rằng người thấy không là gì cả ngoại trừ là dụng cụ của thấy. Họ đưa ra một khẳng định tuyệt đối giống như thế.

Krishnamurti: Có thể cái người mà đã thấy, mà đã nhận biết sự thật, đã nói rằng người thấy và thấy là một. Sau đó những người theo sau tận dụng và tạo ra những lý thuyết mà không trải nghiệm trạng thái.

 Tôi không thể tách rời người quan sát khỏi vật được quan sát. Khi tôi nhắm mắt lại, không có người quan sát gì cả. Vì vậy, không có chuyển động phía bên trong như đối nghịch với chuyển động phía bên ngoài.

P: Anh thấy chính anh như một con người?

Krishnamurti: Nếu bạn có ý rằng thân thể – vâng. Như một cái tôi, như một người đang nói trên cái bục, đang đi bộ, đang leo lên ngọn đồi – không.

P: Ý thức của tồn tại, ý thức của ‘tôi hiện diện’; liệu nó không vận hành trong anh?

 

Krishnamurti: Một trong những sự việc mà tôi không bao giờ có là ý thức của ‘cái tôi’. Không bao giờ.

P: ‘Tôi hiện diện’ là hạt nhân trong tất cả chúng tôi. Nó là chính kết cấu của sự tồn tại của chúng tôi.

Krishnamurti: Những diễn tả bên ngoài của Krishnamurti có vẻ là một con người.

 Nhưng tại cốt lõi không có con người. Tôi thực sự không biết nó có nghĩa gì? Bạn đang hỏi, trong anh liệu có một trung tâm, ‘tôi hiện diện’, ý thức của ‘tôi hiện diện’? Không. Cảm thấy của ‘tôi hiện diện’ là không đúng thực.

P: Nó không rõ ràng như thế đâu. Nhưng ý thức của sự tồn tại, hạt nhân của cái tôi bên trong chúng tôi, không thâm nhập được. Có cái gì đó mà kết hợp nó lại cùng nhau và chừng nào nó còn tồn tại, điều gì anh đang nói – không có trung tâm – không có giá trị cho chúng tôi.

Krishnamurti: Không có chuyển động của quá khứ như ‘cái tôi’ trong trung tâm, trong con người. Người ta phải thâm nhập vào điều này rất cẩn thận. Như ngày hôm trước chúng ta đã nói, bước đầu tiên là bước cuối cùng. Sự nhận biết đầu tiên là sự nhận biết cuối cùngkết thúc của sự nhận biết đầu tiên là sự nhận biết mới mẻ. Vì vậy, có một khoảng ngừng hoàn toàn giữa sự nhận biết đầu tiên và sự nhận biết thứ hai. Trong khoảng ngừng đó, không có sự chuyển động của suy nghĩ. Sẽ có sự chuyển động của suy nghĩ khi ký ức của sự nhận biết đầu tiên vẫn còn lưu lại, không phải khi nó chấm dứt. Liệu cái trí không thể tự làm trống không nó khỏi mọi nhận biết? Liệu nó không thể chết đi mọi diễn tả, và khi nó có thể, gốc rễ của ‘tôi hiện diện’ ở đâu? Khi cái trí là cái đó, liệu có bất kỳ chuyển động nào của khuôn mẫu đang xảy ra? Khi hai mắt, hai tai và ham muốn không-hiện diện như chuyển động hướng về hay rời khỏi cái gì đó, vậy thì tại sao cái trí phải có bất kỳ khuôn mẫu nào? Đang thấy là người thấy, trong đó không có sự phân hai, nhưng những người mà thực hiện câu phát biểu đó về một chân lý không trải nghiệm nó, và vì vậy nó vẫn còn là một lý thuyết.

P: Sutras giải thích có nhiều loại giải thoát. Sự giải thoát bằng sinh sản. Vài người được sinh ra theo cách đó. Đó là dạng cao nhất của giải thoát. Tiếp theosự giải thoát bằng thuốc men mà là một phần của ma thuật; tiếp theo sự giải thoát qua những tư thế yoga, tiếp theo sự giải thoát qua kiểm soát hơi thở, tiếp theo sự giải thoát bằng cách hiểu rõ.

 Tôi đã luôn luôn cảm thấy rằng anh đã không bao giờ có thể giải thích cho chúng tôi làm thế nào sự giải thoát đã xảy ra cho anh.

 Liệu cái trí của anh đã giống như những cái trí của chúng tôi và nó đã trải qua sự thay đổi? Nếu như thế, vậy thì có một khả năng của thấy cho chính mình và thay đổi cái tôi. Nhưng thậm chí điều đó không liên quan. Tôi hiểu rằng thấy của một người khác không thể giúp đỡ tôi thấy. Điều gì tôi thấy là của riêng tôi. Người ta phải bỏ nó lại ở đó. Người ta không thể dò dẫm thêm nữa.

Krishnamurti: Như bạn đã nói, sự giải thoát được phân chia thành những người được sinh ra đã giải thoát và những người được giải thoát qua thuốc men, qua yoga, qua kiểm soát hơi thởhiểu rõ. Đây chỉ là những giải thích về một sự kiện rất đơn giản.

P: Cái trí của anh không giống những cái trí của chúng tôi, đó là một sự kiện đơn giản.

Krishnamurti: Có tất cả những phân loại này – thuốc men, hít thở và nỗ lực vô cùng được bao hàm trong hiểu rõ – nhưng tôi không nghĩ nó làm việc theo cách đó.

 

P: Tôi không quan tâm điều gì những quyển sách giải thích. Tôi rất quan tâm khi cái trí của tôi huyên thuyên. Trong khoảnh khắc của nhận biết, tôi thấy rằng một tan biến nào đó đã xảy ra trong tôi. Nhưng tôi không được tự do khỏi ham muốn của kết thúc sự huyên thuyên này.

Krishnamurti: Bạn thực sự muốn kết thúc nó?

P: Vâng.

Krishnamurti: Tại sao nó không kết thúc. Bạn thấy đó, rất lý thú. Không có kết thúc đối với sự huyên thuyên.

P: Đó là điều gì cái trí của tôi khước từ để thấy; rằng không có hành động để kết thúc nó.

Krishnamurti: Tại sao? Bạn muốn thâm nhập nó?

P: Vâng.

Krishnamurti: Trước hết, tại sao bạn phản kháng nếu cái trí của bạn huyên thuyên? Nếu bạn muốn kết thúc sự huyên thuyên, vậy là vấn đề bắt đầu. Sự phân hai là sự ham muốn phải kết thúc ‘cái gì là’. Tại sao bạn phản kháng nó? Những tiếng ồn đang xảy ra, những chiếc xe buýt đang chạy qua, con quạ đang kêu. Hãy thả cho những huyên thuyên tiếp tục. Tôi sẽ không phản kháng nó. Tôi sẽ không hứng thú nó. Nó hiện diện ở đó. Nó không có nghĩa gì cả.

P: Đây là mấu chốt của anh. Nếu anh hỏi tôi, điều gì là mấu chốt vĩ đại nhất trong lời giảng của anh, đó là điều này. Nói với chính mình, nói với cái trí huyên thuyên, hãy thả nó ở đó. Không người thầy nào đã nói điều này trước kia.

Krishnamurti: Mà có nghĩa rằng ảnh hưởng thuộc ngoại vi không có ý nghĩa gì tại trung tâm.

P: Tất cả những người thầy đã nói về kết thúc sự huyên thuyên, kết thúc ảnh hưởng thuộc ngoại vi.

Krishnamurti: Liệu bạn không thấy khi huyên thuyên không đặt thành vấn đề, nó chấm dứt, hay sao? Thật lạ lùng làm sao khi nó vận hành. Tôi nghĩ đây là mấu chốt trọng điểm mà những người chuyên nghiệp đã bỏ lỡ. Từ quan điểm của vị đạo sư, liệu bạn sẽ nói rằng anh ấy chỉ quan tâm đến sự thay đổi ở ngoại vi?

P: Không. Anh ấy quan tâm đến sự thay đổi trung tâm. Với anh không có sự khác biệt giữa trung tâm và ngoại vi. Bên trong cái tạm gọi là trung tâmbước đầu tiên và bước cuối cùng. Những đạo sư sẽ nói, hãy loại bỏ sự huyên thuyên ở ngoại vi.

Krishnamurti: Khi mặt trời đang chiếu sáng, bạn không thể làm bất kỳ điều gì về nó. Khi nó không hiện diện ở đó, chúng ta sẽ làm gì? (Ngừng) Chúng ta không thấy. (Ngừng) Con người sẽ nghĩ gì về câu phát biểu ‘hãy để cho nó huyên thuyên’? Sự kiện hiện diện ở đó là không-phân hai, và luôn luôn người quan sát là vật được quan sát. Sự ồn ào của ngoại vi là sự ồn ào của người quan sát. Khi người quan sát không hiện diện, sự ồn ào không còn. Khi có sự kháng cự, người quan sát hiện diện. Liệu người ta có thể thực sự thấy rằng, người thấy là đang thấy và không chấp nhận câu phát biểu đó như một chân lý, như một diễn giải? Nhưng chúng ta thấy rằng những người chuyên nghiệp đã biến nó thành một khẩu hiệu.

 Liệu có sự giải thoát cho con ngườisử dụng thuốc men, và luyện tập hít thở, trong nhiều năm? Nó có lẽ dẫn đến một cái trí biến dạng. Và cái người phân tích và muốn hiểu rõ, bạn nghĩ anh ấy sẽ tìm ra sự giải thoát? Thế là, nếu bạn phủ nhận tất cả việc đó, nó hiện diện ở đó trên một cái đĩa bạc. Nó được trao tặng. Không bao giờ lặp lại bất kỳ điều gì. Không bao giờ nói bất kỳ điều gì mà bạn không biết, mà bạn đã không sống. Việc đó mang lại một cô đơn lạ thường mà là tinh khiết, rõ ràng, trong suốt như pha lê.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14285)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14555)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11836)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14342)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13255)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14617)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12630)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25190)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27839)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26318)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17197)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16519)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15890)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22096)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17117)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24856)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21928)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19053)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16154)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21696)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16763)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14648)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16678)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25011)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18764)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21191)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14758)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14364)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16600)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 17999)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12894)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14931)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12689)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13877)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14593)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27965)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27140)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14329)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20913)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14660)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24152)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28627)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14723)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13277)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16424)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27191)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 11991)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16050)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21428)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12359)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant