Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. New Delhi, 17 tháng hai 1960

15 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 5245)
04. New Delhi, 17 tháng hai 1960

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ HỌC HÀNHHIỂU BIẾT
ON LEARNING AND KNOWLEDGE
Lời dịch: Ông Không - 2009

New Delhi, 17 tháng hai 1960

Hầu hết chúng ta phải nhận biết rằng một thay đổi cơ bản là cần thiết. Chúng ta bị đối diện với quá nhiều vấn đề, và phải có một phương cách khác hẳn – có lẽ một phương cách hoàn toàn khác hẳn – để tiếp cận tất cả những vấn đề này. Dường như đối với tôi nếu chúng ta không hiểu rõ bản chất bên trong của sự thay đổi này, chỉ đổi mới, một cách mạng trên bề mặt, sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Chắc chắn, điều gì cần thiết không là một thay đổi hời hợt, không là một điều chỉnh tạm thời hay tuân phục đến một khuôn mẫu mới, nhưng trái lại một thay đổi cơ bản của cái trí, một thay đổi mà sẽ là tổng thể, không chỉ từng phần.

Muốn hiểu rõ vấn đề của thay đổi này, trước hết rất cần thiết phải hiểu rõ qui trình của suy nghĩbản chất của hiểu biết. Nếu chúng ta không tìm hiểu điều này thấu đáo, bất kỳ thay đổi nào sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, bởi vì chỉ thay đổi trên bề mặt lại là tiếp tục ngay những sự việc chúng ta đang cố gắng thay đổi. Tất cả những cách mạng được sắp đặt để thay đổi sự liên hệ của con người với con người, để mang lại một xã hội tốt đẹp hơn, một cách sống khác; nhưng qua qui trình từ từ của thời gian chính những sai lầm mà cuộc cách mạng bắt buộc phải xóa sạch, lại xảy ra trong một cách khác với một nhóm người khác, và thế là toàn qui trình cũ kỹ lại tiếp tục. Chúng ta khởi hành để thay đổi, để tạo ra một xã hội không giai cấp, nhưng chỉ phát giác rằng, qua thời gian, qua áp lực của những hoàn cảnh, một nhóm người khác lại trở thành một giai cấp trưởng giả mới. Cách mạng không bao giờ triệt để, cơ bản.

Dường như đối với tôi sự điều chỉnh hay đổi mới trên bề mặt đó đều vô nghĩa khi chúng ta đối diện với quá nhiều vấn đề, và muốn tạo ra một thay đổi có ý nghĩa lẫn bền vững, chúng ta phải thấy sự thay đổi có nghĩa gì. Chúng ta có thay đổi trên bề mặt dưới áp lực của những hoàn cảnh, qua sự tuyên truyền, qua nhu cầu, hay qua sự ham muốn để tuân phục đến một khuôn mẫu đặc biệt. Tôi nghĩ người ta phải nhận biết được điều này. Một sáng chế mới, một đổi mới thuộc chính trị, một chiến tranh, một cách mạng xã hội, một hệ thống kỷ luật – những thứ này có thay đổi cái trí của con người, nhưng chỉ trên bề mặt. Và con người mà khẩn thiết muốn tìm ra điều gì được bao hàm trong một thay đổi cơ bản chắc chắn phải tìm hiểu toàn qui trình của suy nghĩ, đó là, tìm hiểu bản chất của cái trí và hiểu biết.

Tôi muốn nói chuyện với bạn cái trí là gì, bản chất của hiểu biết là gì, và biết có nghĩa gì, bởi vì nếu chúng ta không hiểu tất cả điều đó, tôi không nghĩ chúng ta có thể có một tiếp cận mới mẻ đến nhiều vấn đề của chúng ta, một cách mới mẻ khi quan sát sống.

Sống của hầu hết chúng ta đều khá xấu xa, hèn hạ, đau khổ, nhỏ nhen. Sự tồn tại của chúng ta là một chuỗi của những xung đột, những mâu thuẫn, một tiến hành của đấu tranh, phiền muộn, niềm vui qua mau, thỏa mãn chóng vánh. Chúng ta bị trói buộc bởi quá nhiều những điều chỉnh, những tuân phục, những khuôn mẫu, và không bao giờ có một khoảnh khắc của tự do, không bao giờ có một ý thức của toàn thân tâm trọn vẹn. Luôn luôn có tuyệt vọng bởi vì luôn luôn có sự tìm kiếm thành tựu. Chúng ta không có sự yên bình của cái trí nhưng luôn luôn bị hành hạ bởi vô số những đòi hỏi. Vì vậy muốn hiểu rõ tất cả những vấn đề này và vượt khỏi chúng, chắc chắnnhất thiết rằng chúng ta phải khởi sự bằng hiểu rõ bản chất của hiểu biết và sự tiến hành của cái trí.

Hiểu biết hàm ý một ý thức của tích lũy, phải không? Hiểu biết có thể được thâu lượm, và bởi vì bản chất của nó, hiểu biết luôn luôn là từng phần; nó không bao giờ nguyên vẹn. Vì vậy tất cả hành động bắt nguồn từ hiểu biết cũng là từng phần, không nguyên vẹn. Tôi nghĩ chúng ta phải thấy điều đó rất rõ ràng.

Nếu cái trí của bạn và cái trí của người nói đang chuyển động cùng nhau trong sự hiểu rõ, bằng nhạy cảm, vậy thì có thể có sự hiệp thông thực sự cùng nhau. Nhưng nếu bạn chỉ đang lắng nghe để tìm ra tại khúc cuối của nói chuyện tôi có ý giải thích điều gì qua từ ngữ hiểu biết, vậy thì chúng ta không hiệp thông. Bạn chỉ đang chờ đợi một định nghĩa, và chắc chắn những định nghĩa khôngphương cách của hiểu rõ.

Vì vậy câu hỏi nảy sinh, hiểu rõ là gì? Trạng thái của cái trí mà hiểu rõ là gì? Khi bạn nói, ‘Tôi hiểu rõ’, bạn có ý gì qua câu phát biểu đó? Hiểu rõ không là qui trình hiểu biết thuộc trí năng; nó không là kết quả của sự tranh luận; nó không liên quan gì đến chấp nhận, phủ nhận, hay tin tưởng. Trái lại, chấp nhận, phủ nhận, và tin tưởng ngăn cản hiểu rõ. Chắc chắn, muốn hiểu rõ phải có một trạng thái chú ý mà trong đó không có ý thức của so sánh hay chỉ trích, không chờ đợi một khai triển sâu sắc hơn về vấn đề chúng ta đang nói với mục đích để đồng ý hay không-đồng ý. Có một đình chỉ hay ngưng lại của tất cả ý kiến, của tất cả ý thức chỉ trích hay so sánh; bạn chỉ đang lắng nghe để tìm ra. Tiếp cận của bạn là sự tiếp cận của tìm hiểu, mà có nghĩa bạn không bắt đầu từ một kết luận; bạn ở trong một trạng thái của chú ý, mà thật ra là đang thực sự lắng nghe.

Tôi muốn tìm hiểu vấn đề của hiểu biết này, dù khó khăn đến chừng nào, bởi vì, nếu chúng ta có thể hiểu rõ vấn đề của hiểu biết, vậy thì tôi nghĩ chúng ta có thể vượt khỏi cái trí, và trong vượt khỏi hay thăng hoa chính nó, cái trí có lẽ không bị giới hạn, đó là, không còn nỗ lực, mà đặt ra một giới hạn trên ý thức. Nếu chúng ta không vượt khỏi qui trình máy móc của cái trí, chắc chắn trạng thái sáng tạo thực sự không thể xảy ra được, và rõ ràng, điều gì cần thiết là một cái trí sáng tạo để cho nó có thể giải quyết tất cả vô vàn vấn đề này. Muốn hiểu rõ hiểu biết là gì và vượt khỏi cái từng phần, cái giới hạn để trải nghiệm cái sáng tạo, đòi hỏi không chỉ một khoảnh khắc của trực nhận nhưng còn cả một tỉnh thức liên tục, một trạng thái thâm nhập liên tục mà trong đó không có kết luận. Và rốt cuộc ra, đây là thông minh.

Vì vậy nếu bạn đang lắng nghe, không chỉ bằng đôi tai của bạn nhưng còn bằng một cái trí mà thực sự khao khát muốn hiểu rõ, một cái trí mà không có uy quyền, mà không bắt đầu bằng một kết luận hay bằng một trích dẫn, mà không có sự ham muốn được công nhận là đúng thực nhưng một cái trí mà nhận biết được vô số những vấn đề này và thấy sự cần thiết phải giải quyết trực tiếp nó – nếu đó là trạng thái của cái trí bạn – vậy thì tôi nghĩ chúng ta có thể hiệp thông cùng nhau. Ngược lại bạn sẽ được để lại chỉ nhiều từ ngữ mà thôi. 

Như tôi đang nói, tất cả hiểu biết là từng phần, và bất kỳ hành động nào được sinh ra từ hiểu biết cũng là từng phần và thế là mâu thuẫn. Nếu bạn hoàn toàn tỉnh thức được về chính bạn, về những hoạt động của bạn, về những động cơ của bạn, về những suy nghĩ và những ham muốn của bạn. Bạn sẽ thấy rằng bạn sống trong một trạng thái của tự-mâu thuẫn: ‘Tôi muốn’ và cùng lúc ‘Tôi không muốn’, ‘Tôi phải làm việc này’ và ‘Tôi không được làm việc kia’, và vân vân, và vân vân. Luôn luôn cái trí ở trong một trạng thái của mâu thuẫn, và sự mâu thuẫn càng kịch liệt bao nhiêu, hành động của bạn càng tạo ra nhiều hỗn loạn bấy nhiêu. Đó là, khi có một thách thức mà phải được trả lời, mà không thể lẩn tránh được, hay bạn không thể tẩu thoát khỏi nó, vậy là cái trí của bạn, vì ở trong một trạng thái mâu thuẫn, sự căng thẳng của phải đối diện thách thức đó bắt buộc một hành động, và hành động như thế sinh ra mâu thuẫn thêm nữa, đau khổ thêm nữa.

Tôi không hiểu liệu đã rõ ràng rằng chúng ta sống trong một trạng thái mâu thuẫn. Chúng ta nói về hòa bình và chuẩn bị cho chiến tranh. Chúng ta nói về không-bạo lực và tại căn bản lại bạo lực. Chúng ta nói về tốt lành, và chúng ta lại không. Chúng ta nói về tình yêu – và chúng ta lại đầy tham vọng, ganh đua, đạt được sự hiệu quả bằng những hình thức tàn nhẫn. Vậy là có mâu thuẫn. Hành động phát sinh từ mâu thuẫn đó chỉ tạo ra thất vọngmâu thuẫn thêm nữa. Hiểu biết là không-trọn vẹn, bất kỳ hành động nào được sinh ra từ hiểu biết đó chắc chắn phải bị mâu thuẫn.Vậy thì vấn đề của chúng ta là phải tìm ra một nguồn của hành động mà không từng phần, ngay lúc này khám phá nó để sáng tạo một hành động tức khắc mà là tổng thể và không nói, ‘Tôi sẽ tìm ra nó qua hệ thống nào đó, tại thời gian tương lai nào đó’.

Bạn thấy, tất cả tư tưởng là từng phần; nó không bao giờ có thể tổng thể. Tư tưởng là sự đáp lại của ký ức, và ký ức luôn luôn là từng phần, bởi vì ký ức là kết quả của trải nghiệm; vì vậy tư tưởngphản ứng của một cái trí bị quy định bởi trải nghiệm. Chắc chắn tất cả suy nghĩ, tất cả trải nghiệm, tất cả hiểu biết là từng phần; vì vậy tư tưởng không thể giải quyết nhiều vấn đềchúng ta có. Bạn có lẽ cố gắng lý luận hợp lý, khôn khéo về nhiều vấn đề này; nhưng nếu bạn quan sát cái trí riêng của bạn, bạn sẽ thấy rằng suy nghĩ của bạn bị quy định bởi những hoàn cảnh của bạn, bởi văn hóa trong đó bạn được sinh ra, bởi thực phẩm bạn ăn, bởi khí hậu bạn sống trong nó, bởi báo chí bạn đọc, bởi những áp lực và những ảnh hưởng thuộc sống hàng ngày của bạn. Bạn bị quy định như một người cộng sản, như một người khoa học, như một người Ấn dộ giáo, như một người Thiên chúa giáo, hay bất kỳ người nào bạn muốn. Bạn bị quy định để tin tưởng hay không-tin tưởng, và bởi vì cái trí của bạn bị quy định bởi tin tưởng hay không-tin tưởng của nó, bởi hiểu biết của nó, bởi trải nghiệm của nó, tất cả suy nghĩ là từng phần. Không có suy nghĩ mà được tự do.

Vì vậy chúng ta phải hiểu rất rõ ràng rằng suy nghĩ của chúng ta là sự đáp lại của ký ức, và ký ức là máy móc. Hiểu biết không bao giờ trọn vẹn, và tất cả suy nghĩ được sinh ra từ hiểu biết đều bị giới hạn, từng phần, không bao giờ được tự do. Vì vậy không có sự tự do của tư tưởng. Nhưng chúng ta có thể bắt đầu khám phá một sự tự do mà không là qui trình của tư tưởng và trong tự do đó cái trí rất đơn giản nhận biết được tất cả những xung đột của nó và tất cả những ảnh hưởng đang áp đặt vào nó.

Rốt cuộc, mục đích của sự giáo dục như hiện nay chúng ta có là gì? Nó có nghĩa là đúc khuôn cái trí tùy theo nhu cầu, phải không? Hiện nay xã hội cần nhiều kỹ sư, những người khoa học, những người vật lý học, vì vậy qua nhiều hình thức khác nhau của phần thưởng và cưỡng bách cái trí bị áp đặt để tuân phục nhu cầu đó. Và đây là điều gì chúng ta gọi là giáo dục. Mặc dù hiểu biếtcần thiết, và chúng ta không thể làm gì nếu không được giáo dục, liệu có thể có hiểu biết và không là nô lệ cho nó? Bởi vì nhận biết được bản chất từng phần của hiểu biết, liệu chúng tathể không cho phép cái trí bị trói buộc trong hiểu biết, để cho nó có thể hành động tổng thể, mà là hành động không bị đặt nền tảng trên một tư tưởng, một ý tưởng?

Cho phép tôi giải thích nó theo cách này. Liệu không có một khác biệt giữa hiểu biết và đang biết? Chắc chắn, hiểu biết luôn luôn thuộc thời gian, trái lại đang biết không thuộc thời gian. Hiểu biết là từ một nguồn, từ một tích lũy, từ một kết luận, trong khi đang biết là một chuyển động. Một cái trí mà liên tục ở trong chuyển động của đang biết, đang học hành, không có khởi nguồn từ cái mà nó biết.

Chúng ta hãy thử trình bày nó theo một cách khác. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ học hành? Liệu có học hành khi bạn chỉ đang tích lũy hiểu biết, đang thâu lượm thông tin? Đó là một loại học hành, phải không? Là một sinh viên ngành kỹ sư, bạn học toán, và vân vân; bạn đang học hành, đang thông tin cho chính bạn về chủ đề. Bạn đang tích lũy hiểu biết với mục đích sử dụng hiểu biết đó trong những cách thực tế. Học hành của bạn là tích lũy, thêm vào. Bây giờ, khi cái trí chỉ thâu nhận, đang thêm vào, đang thâu lượm, nó là học hành hay sao? Hay học hành là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn? Tôi nói qui trình thêm vào mà lúc này chúng ta gọi là học hành không là học hành gì cả. Nó chỉ là sự vun quén của ký ức, mà trở thành máy móc; và một cái trí mà vận hành một cách máy móc, giống như một cái máy, không thể học hành. Một cái máy không bao giờ có thể học hành ngoại trừ trong ý nghĩa thêm vào. Học hành là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn, như tôi sẽ cố gắng giải thích cho bạn. 

Một cái trí đang học hành không bao giờ nói, ‘Tôi biết’, bởi vì hiểu biết luôn luôn là từng phần, trái lại học hành luôn luôn là tổng thể. Học hành không có nghĩa bắt đầu bằng một lượng hiểu biết nào đó và thêm vào hiểu biết cho nó. Đó không là học hành gì cả; đó là một qui trình hoàn toàn máy móc. Đối với tôi, học hành là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn. Tôi đang tự-học hành về chính tôi từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, và ‘chính tôi’ sinh động lạ thường. Nó đang sống, đang chuyển động; nó không có khởi đầu và kết thúc. Khi tôi nói, ‘Tôi biết về chính tôi’. Học hành đã kết thúc trong hiểu biết được tích lũy. Học hành không bao giờ là tích lũy; nó là một chuyển động của biết mà không khởi đầu và không kết thúc.

Liệu cái trí có thể làm tự do chính nó khỏi sự tích lũy một cách máy móc được gọi là hiểu biết? Và liệu người ta có thể tìm ra điều đó qua sự tiến hành của suy nghĩ? Bạn và tôi nhận ra rằng chúng ta bị quy định. Nếu bạn nói, như người nào đó nói, rằng tình trạng bị quy định là không tránh khỏi, vậy thì không có vấn đề; bạn là một nô lệ, và đó là sự kết thúc của nó. Nhưng nếu bạn bắt đầu tự-hỏi chính mình liệu có thể phá vỡ sự giới hạn này, tình trạng bị quy định này, vậy thì có một nghi vấn. Vậy thì bạn sẽ phải tìm hiểu toàn sự tiến hành của suy nghĩ. Nếu bạn chỉ nói, ‘Tôi phải nhận biết được tình trạng bị quy định của tôi, tôi phải suy nghĩ về nó, phân tích nó với mục đích hiểu rõ nó và triệt tiêu nó’, vậy thì bạn đang vận dụng sức mạnh. Suy nghĩ của bạn, phân tích của bạn vẫn còn là kết quả thuộc hậu cảnh của bạn. Vì vậy qua tư tưởng của bạn, chắc chắn bạn không thể phá vỡ tình trạng bị quy định mà nó là một bộ phận.

Trước hết chỉ cần thấy vấn đề; đừng đòi hỏi giải pháp. Sự kiện là rằng chúng ta bị quy định và rằng tất cả suy nghĩ để hiểu rõ tình trạng bị quy định này sẽ luôn luôn là từng phần. Vì vậy không bao giờ có sự hiểu rõ tổng thể và chỉ trong sự hiểu rõ tổng thể của toàn sự tiến hành của suy nghĩ mới có tự do. Sự khó khăn là chúng ta luôn luôn đang vận hành trong lãnh vực của cái trí, mà là công cụ của tư tưởng, hợp lý hay vô lý, và, như chúng ta đã thấy, tư tưởng luôn luôn là từng phần.

Đối với tôi, cái trí là một vật tổng thể. Nó là trí năng; nó là những cảm xúc, khả năng để quan sát, phân biệt; nó là trung tâm của tư tưởng mà nói, ‘Tôi sẽ’ và ‘Tôi sẽ không’; nó là ham muốn; nó là thành tựu. Nó là sự việc tổng thể, không phải cái gì đó thuộc trí năng tách rời khỏi cảm xúc. Chúng ta vận dụng tư tưởng như một phương tiện để giải quyết những vấn đề của chúng ta. Nhưng tư tưởng không là phương tiện để giải quyết bất kỳ vấn đề nào của chúng ta, bởi vì tư tưởng là sự đáp trả của ký ức, và ký ức là kết quả của hiểu biết được tích lũy như trải nghiệm. Nhận ra việc này, cái trí sẽ làm gì?

Tôi chứa đầy tham vọng, ham muốnquyền lực, vị trí, thanh danh, và tôi cũng cảm thấy rằng tôi phải biết tình yêu là gì, thế là tôi ở trong trạng thái của xung đột. Một con người theo đuổi uy quyền, vị trí, thanh danh, không có tình yêu gì cả, mặc dù anh ấy có thể nói về nó, và bất kỳ sự hòa hợp nào của hai đều không thể được, dù anh ấy khao khát đến chừng nào chăng nữa. Tình yêu và uy quyền không thể hòa hợp. Vì vậy cái trí sẽ làm gì? Chúng ta thấy, tư tưởng sẽ chỉ tạo ra những mâu thuẫn thêm nữa, đau khổ thêm nữa. Vì vậy liệu cái trí có thể nhận biết được vấn đề này mà không giới thiệu tư tưởng vào nó?

Hãy cho phép tôi giải thích theo một cách khác. Liệu nó có khi nào xảy đến cho bạn – tôi chắc chắn có – rằng bạn bỗng nhiên trực nhận cái gì đó, và trong khoảnh khắc của trực nhận đó bạn không có vấn đề gì cả? Ngay khoảnh khắc bạn đã trực nhận vấn đề, vấn đề đã hoàn toàn kết thúc. Bạn có một vấn đề, và bạn suy nghĩ về nó, tranh luận về nó, lo lắng về nó; bạn vận dụng mọi phương tiện bên trong những giới hạn của tư tưởng bạn để hiểu rõ nó. Cuối cùng bạn nói, ‘Tôi không thể làm gì nữa’. Không có ai giúp đỡ bạn hiểu rõ, không đạo sư nào, không quyển sách nào, và không có lối thoát. Bởi vì đã khoét sâu vào nghi vấn bằng hết khả năng của bạn, bạn bỏ nó lại một mình. Cái trí của bạn không còn lo âu, không còn xé nát vấn đề, không còn nói, ‘Tôi phải tìm ra đáp án’, thế là nó trở nên yên lặng, phải không? Và trong yên lặng đó bạn tìm được đáp án. Điều đó thỉnh thoảng không xảy đến cho bạn à? Nó không phải việc gì to tát lắm. Nó xảy đến cho những người khoa học, những người toán học vĩ đại, và thỉnh thoảng mọi người trải nghiệm nó trong sống hàng ngày. Mà có nghĩa gì? Cái trí đã vận dụng toàn bộ khả năng của nó để suy nghĩ và đã đến bờ vực của tất cả tư tưởng mà đã không tìm được đáp án; thế là nó trở nên bặt tăm – không phải do bi quan, không phải do kiệt sức, không phải bằng cách nói, ‘Tôi sẽ yên lặng và nhờ đó tìm được đáp án’. Bởi vì đã thực hiện xong mọi việc có thể làm được để tìm ra đáp án, cái trí trở nên yên lặng một cách tự phát. Có một tỉnh táo không chọn lựa, không mọi đòi hỏi, một tỉnh táo trong đó không có lo âu, và trong trạng thái của cái trí đó có sự nhận biết. Chính một mình sự nhận biết này sẽ giải quyết tất cả những vấn đề của chúng ta.

Lại nữa, hãy cho phép tôi giải thích nó theo một cách khác. Khi chúng ta quan tâm đến cái trí, chúng ta phải tìm hiểu ý thức, bởi vì cái trí là ý thức. Cái trí không chỉ là trí năng, cảm giác, ham muốn, chán nản, thành tựu, tuyệt vọng, nhưng còn cả tổng thể của ý thức, mà bao gồm tầng ý thức bên trong. Hầu hết chúng ta đều vận hành trên bề mặt tại tầng ý thức bên ngoài. Khi chúng ta đi làm việc từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều, hay bất kỳ giờ giấc nào, năm này qua năm khác, cùng một ý thức nhàm chán cực độ, bạn đang vận hành một cách tự động, giống như một cái máy, trong những tầng bên ngoài của ý thức. Bạn đã học hành một công việc kinh doanh hay một nghề nghiệp, và cái trí bên ngoài của bạn đang vận hành tại mức độ đó, trái lại tại sâu thẳm lại có tầng ý thức bên trong. Ý thức giống như một con sông đang chảy xiết, rộng và sâu. Trên bề mặt nhiều sự việc đang xảy ra, và có nhiều phản ảnh, nhưng chắc chắn đó không là toàn con sông. Con sông là một tổng thể, nó bao gồm cái gì ở phía dưới cũng như cái gì ở bên trên. Nó cũng như vậy với ý thức, nhưng chẳng mấy người trong chúng ta biết được cái gì đang xảy ra ở sâu thẳm bên trong. Hầu hết chúng ta đều thỏa mãn nếu chúng ta có thể sống khá sung sướng, kèm theo sự an toàn nào đó và chút ít hạnh phúc trên bề mặt. Chừng nào chúng ta còn có một chút ít lương thực và chỗ ở, một chút ít nghi thức tôn giáo, những thần thánh nhỏ tí và những vui vẻ thoáng chốc, sự nô đùa trên bề mặt đã quá tốt đẹp cho chúng ta rồi. Bởi vì chúng ta thỏa mãn quá dễ dàng, chúng ta không bao giờ thâm nhập vào những chiều sâu, và có lẽ những chiều sâu lại mạnh mẽ, đầy uy quyền, khẩn thiết trong những đòi hỏi của chúng hơn là trên bề mặt. Vậy là có một mâu thuẫn giữa cái gì đang lộ ra trên bề mặt và cái gì đang xảy ra phía bên trong. Hầu hết chúng ta nhận biết được sự mâu thuẫn này chỉ khi nào có một khủng hoảng, bởi vì cái trí bề mặt đã điều chỉnh hoàn toàn đến môi trường sống. Cái trí bề mặt đã thâu lượm văn hóa phương Tây mới, với chế độ đại nghị của nó, và tất cả mọi chuyện còn lại, nhưng sâu thẳm bên trong vẫn còn có những tàn tích cổ xưa, những bản năng chủng tộc, những động cơ lặng lẽ mà đang liên tục đòi hỏi, thôi thúc. Những sự việc này nằm sâu thẳm bên trong đến độ thông thường chúng ta không cảm thấy chúng, và chúng ta không tìm hiểu chúng bởi vì chúng ta không có thời gian. Những hàm ý của chúng thường được chiếu rọi vào cái trí tầng ý thức bên ngoài như những giấc mộng.

Vì vậy cái trí là toàn sự việc đó, nhưng hầu hết chúng ta chỉ mãn nguyện vận hành trên bề mặt. Chỉ trong những lúc có những cơn khủng hoảng cấp bách, chúng ta mới nhận biết được sự mâu thuẫn sâu thẳm bên trong này trong chính chúng ta, và sau đó chúng ta muốn tẩu thoát khỏi nó, vì vậy chúng ta đi đến một ngôi đền, đến một đạo sư, hay chúng ta bật máy thâu thanh, hay làm điều gì khác. Tất cả những tẩu thoát, dù qua Thượng đế hay qua máy thâu thanh, từ căn bản đều giống nhau.

Vậy là có một mâu thuẫn trong ý thức, và bất kỳ nỗ lực nào để giải quyết mâu thuẫn đó hay để tẩu thoát khỏisắp đặt một giới hạn thêm nữa trên ý thức. Luôn luôn tôi đang nói về cùng sự việc trong những cách khác nhau. Chúng ta quan tâm đến cái trí và làm thế nào cái trí, vì được giáo dục trong hiểu biết, trong từng phần, sẽ nhận biết được trong tổng thể. Chỉ khi nào cái trí nhận biết được tổng thể mới có một hiểu rõ trong đó vấn đề được kết thúc.

Tất cả suy nghĩ bị giới hạn, bởi vì suy nghĩ là sự đáp lại của ký ức – ký ức như trải nghiệm, ký ức như sự tích lũy hiểu biết – và nó là máy móc. Vì là máy móc, suy nghĩ sẽ không giải quyết những vấn đề của chúng ta. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta phải ngừng suy nghĩ. Nhưng một nhân tố mới mẻ hoàn toàncần thiết. Chúng ta đã thử những phương pháp và những hệ thống khác nhau, những cách khác nhau – cách chính trị, cách tôn giáo – và tất cả chúng đều thất bại. Con người vẫn còn trong đau khổ, anh ấy vẫn còn đang lục lọi, đang tìm kiếm trong sự hành hạ của tuyệt vọng, và dường như khôngkết thúc cho sự đau khổ của anh ấy. Vì vậy phải có một nhân tố hoàn toàn mới mẻ mà không thể được công nhận bởi cái trí.

Chắc chắn cái trí là công cụ của sự công nhận, và bất kỳ điều gì mà cái trí công nhận đã được biết rồi; vì vậy nó không là cái mới mẻ. Nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng, của ký ức, và vì vậy là máy móc. Vậy là cái trí phải ở trong trạng thái nơi nó nhận biết mà không có sự tiến hành của công nhận.

Bây giờ, trạng thái đó là gì? Nó không liên quan gì đến tư tưởng; nó không liên quan gì đến sự công nhận. Công nhậntư tưởng là máy móc. Nếu tôi được phép giải thích nó theo cách này, nó là một trạng thái của nhận biết và không còn gì thêm nữa, đó là: một trạng thái của đang là.

Hầu hết chúng ta là những con người tầm thường, cùng những cái trí rất nông cạn, và sự suy nghĩ của một cái trí nông cạn, chật hẹp chỉ có thể dẫn đến sự đau khổ thêm nữa. Một cái trí nông cạn không thể làm cho nó sâu thẳm; nó sẽ luôn luôn nông cạn, nhỏ nhen, đố kỵ. Điều gì nó có thể làm là nhận ra sự kiện rằng nó nông cạn và không tạo ra một nỗ lực để thay đổi nó. Cái trí thấy rằng nó bị quy định và không có sự thôi thúc để thay đổi trạng thái bị quy định đó, bởi vì nó hiểu rõ rằng bất kỳ cưỡng bách để thay đổi nào đều là kết quả của hiểu biết, mà là từng phần. Vì vậy nó ở trong một trạng thái của nhận biết. Nó đang trực nhận cái gì là. Nhưng thông thường điều gì xảy ra? Bởi vì đố kỵ, cái trí vận dụng tư tưởng để loại bỏ đố kỵ, thế là tạo tác sự đối nghịch như không-đố kỵ, nhưng nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng. Bây giờ nếu cái trí trực nhận trạng thái của đố kỵ mà không chỉ trích hay chấp nhận nó và không giới thiệu sự ham muốn để thay đổi, vậy thì nó là một trạng thái của trực nhận, và chính trạng thái của trực nhận đó mang lại một chuyển động mới mẻ, một yếu tố mới mẻ, một chất lượng hoàn toàn mới mẻ của đang là.

Bạn thấy, những từ ngữ, những giải thích, và những biểu tượng là một việc, và đang là là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn. Ở đây chúng ta không quan tâm đến những từ ngữ; chúng ta quan tâm đến đang là – đang là cái gì chúng ta thực sự là, không phải đang mơ mộng về chính chúng ta như những thực thể thuộc tinh thần, cái siêu ngã, và mọi chuyện vô lý đó, mà vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng, và vì vậy từng phần. Điều gì quan trọng là đang là cái gì chúng ta là – đố kỵ – và đang trực nhận nó một cách tổng thể. Và bạn có thể trực nhận nó một cách tổng thể chỉ khi nào không có chuyển động của tư tưởng. Cái trí là chuyển động của tư tưởng, và nó cũng là trạng thái trong đó có sự nhận biết tổng thể mà không có chuyển động của tư tưởng. Chỉ trạng thái nhận biết đó mới có thể mang lại một thay đổi cơ bản trong những phương cách thuộc suy nghĩ của chúng ta, và vì vậy suy nghĩ sẽ không là máy móc. 

Chắc chắn, điều gì chúng ta quan tâm đến là nhận biết được toàn qui trình này của cái trí cùng những giới hạn của nó và không tạo tác một nỗ lực để xóa sạch những giới hạn đó, để thấy trọn vẹn, tổng thể cái gì là. Bạn không thể thấy tổng thể cái gì là nếu tất cả những suy nghĩ không kết thúc. Trong trạng thái của nhận biết đó không có chọn lựa, và chỉ trạng thái đó mới có thể giải quyết những vấn đề của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14298)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14348)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13265)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14626)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25216)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27857)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26332)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15906)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22126)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17125)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24889)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21945)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16696)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18007)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12914)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27997)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27160)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20931)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24169)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28659)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14729)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16438)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27218)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16069)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21459)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant