Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Hiểu rõ về chính mình

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6157)
Chương 4: Hiểu rõ về chính mình

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không – 2010

CHƯƠNG IV
HIỂU RÕ VỀ CHÍNH MÌNH

Những vấn đề của thế giới là những vấn đề quá rộng lớn, quá phức tạp, đến độ muốn hiểu rõ và vì thế giải quyết được chúng người ta phải tiếp cận chúng một cách rất chân thật và mộc mạc; và chân thật, mộc mạc đó, không phụ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài cũng như không phụ thuộc vào những thành kiến và tâm trạng đặc biệt của chúng ta. Như tôi đã trình bày, giải pháp không thể tìm được qua những hội nghị, những kế hoạch, hay qua sự thay thế những vị lãnh đạo cũ kỹ bằng những vị lãnh đạo mới mẻ, và vân vân. Chắc chắn, giải pháp nằm trong người tạo tác của vấn đề, trong người tạo tác của sự ranh mãnh, của sự hận thù và của sự bất hòa to tát đang tồn tại giữa những con người. Người tạo tác của sự ma mãnh này, người tạo tác của những vấn đề này, là cá thể, bạn và tôi, không phải là thế giới như chúng ta hiểu lầm. Thế giới là sự liên hệ của bạn với một người khác. Thế giới không là cái gì đó tách rời bạn và tôi; thế giới, xã hội, là sự liên hệchúng ta thiết lập hay tìm kiếm để thiết lập giữa hai người.

Vì vậy bạn và tôi là vấn đề, và không phải thế giới, bởi vì thế giới là sự chiếu rọi của chính chúng ta và muốn hiểu rõ thế giới chúng ta phải hiểu rõ về chính chúng ta. Thế giới không tách rời chúng ta; chúng tathế giới, và những vấn đề của chúng ta là những vấn đề của thế giới. Điều này không thể bị đẩy đưa một cách chung chung, bởi vì chúng ta quá lờ đờ trong tinh thần của chúng ta đến độ chúng ta nghĩ rằng những vấn đề của thế giới không là trách nhiệm của chúng ta, chúng phải được giải quyết bởi Liên hiệp quốc hay bằng cách thay thế những vị lãnh đạo cũ kỹ bằng những vị lãnh đạo mới mẻ. Chính là một tinh thần rất lờ đờ mới suy nghĩ giống như thế, bởi vì chúng ta phải chịu trách nhiệm cho sự đau khổ và sự hỗn loạn kinh hoàng này trong thế giới, chiến tranh luôn luôn đang đe dọa này. Muốn thay đổi thế giới, chúng ta phải khởi sự từ chính chúng ta; và điều quan trọng trong khi khởi sự từ chính chúng ta là ‘ý định’. Ý định phải là hiểu rõ về chính chúng ta và không buông trôi nó cho những người khác thay đổi chính họ hay tạo ra một thay đổi được bổ sung qua cách mạng, hoặc của phe tả hoặc của phe hữu. Điều quan trọng phải hiểu rõ rằng, đây là trách nhiệm của chúng ta, trách nhiệm của các bạn và trách nhiệm của tôi; bởi vì dù chúng ta có lẽ đang sống trong thế giới nhỏ nhoi đến chừng nào, nếu chúng ta có thể tự-thay đổi chính chúng ta, tạo ra một quan điểm hoàn toàn khác hẳn trong sự tồn tại hàng ngày của chúng ta, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ gây ảnh hưởng đến thế giới rộng lớn, sự liên hệ được mở rộng với những người khác.

Như tôi đã nói, chúng ta sẽ cố gắngtìm ra sự tiến hành hiểu rõ về chính chúng ta, mà không là một tiến hành cô lập. Nó không là rút lui khỏi thế giới, bởi vì bạn không thể sống trong cô lập. Tồn tại là có liên hệ, và không có sự việc như sống tách rời. Do bởi không có sự liên hệ đúng đắn mới tạo ra những xung đột, đau khổ và đấu tranh; dù thế giới của chúng ta có lẽ nhỏ bé đến chừng nào, nếu chúng ta có thể thay đổi sự liên hệ của chúng ta trong thế giới hạn chế đó, nó sẽ giống như một con sóng luôn luôn đang vươn ra phía bên ngoài. Tôi nghĩ rất quan trọng phải thấy được mấu chốt đó, rằng thế giới là sự liên hệ của chúng ta, dù hạn chế đến chừng nào; và nếu chúng ta có thể tạo ra một thay đổi ở đó, không phải một thay đổi hời hợt nhưng cơ bản, vậy thì chúng ta sẽ thay đổi thế giới một cách hiệu quả. Cách mạng thực sự không lệ thuộc vào bất kỳ khuôn mẫu đặc biệt nào, hoặc của phe tả hoặc của phe hữu, nhưng nó là một cách mạng của những giá trị, một thay đổi từ những giá trị thuộc giác quan đến những giá trị không thuộc giác quan hay không bị tạo tác bởi những ảnh hưởng thuộc môi trường sống. Muốn tìm ra những giá trị thực sự này mà sẽ tạo ra một cách mạng cơ bản, một thay đổi hay một tái sinh, điều cốt lõi là phải hiểu rõ về chính mình. Hiểu rõ về chính mình là sự khởi đầu của thông minh, và vậy là sự khởi đầu của thay đổi hay tái sinh. Muốn hiểu rõ về chính mình phải có ý định để hiểu rõ – và đó là nơi sự khó khăn của chúng ta hiện diện. Mặc dầu hầu hết chúng ta đều bất mãn, chúng ta ao ước tạo ra một thay đổi đột ngột, sự bất mãn của chúng ta bị đúc khuôn chỉ để kiếm được một kết quả nào đó; bởi vì bất mãn, chúng ta hoặc tìm kiếm một công việc khác hoặc chỉ đầu hàng đến môi trường sống. Bất mãn, thay vì đang hừng hực trong chúng ta, đang thôi thúc chúng ta, một sống nghi vấn về toàn qui trình của sự tồn tại, lại bị đúc khuôn. Và thế là chúng ta trở nên tầm thường, mất đi động cơ đó, mãnh liệt đó để tìm ra toàn ý nghĩa của sự tồn tại. Vì vậy rất quan trọng phải khám phá những điều này cho chính chúng ta, bởi vì hiểu rõ về chính mình không thể trao tặng cho chúng ta bởi người khác, nó không thể tìm được qua bất kỳ quyển sách nào. Chúng ta phải khám phá, và muốn khám phá phải có ý định, tìm kiếm, thâm nhập. Chừng nào ý định để tìm được đó, để thâm nhập sâu thẳm đó, còn yếu ớt hay không hiện diện; thuần túy khẳng định hay một ao ước ngẫu nhiên để khám phá về chính chúng ta chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.

Vẫn vậy sự thay đổi thế giới được tạo ra bởi sự thay đổi của chính một người, bởi vì cái tôi là sản phẩm và một bộ phận thuộc toàn qui trình của sự tồn tại con người. Thay đổi chính mình, hiểu rõ về chính mình là cốt lõi; nếu không biết bạn là gì, không có nền tảng cho sự suy nghĩ đúng đắn, và nếu không hiểu rõ về chính bạn, không thể có sự thay đổi. Người ta phải hiểu rõ về chính mình như người ta là, không phải như người ta ao ước là mà chỉ là một lý tưởngvì vậy là tưởng tượng, không có thật; chỉ có cái gì là có thể được thay đổi, không phải cái mà bạn ao ước là. Muốn hiểu rõ về chính mình như người ta là, cần một tỉnh táo lạ thường của cái trí, bởi vì cái gì là liên tục đang trải qua sự biến đổi, sự thay đổi, muốn mau lẹ bám sát nó cái trí phải không bị trói buộc vào bất kỳ giáo điều hay niềm tin đặc biệt nào, vào bất kỳ khuôn mẫu hành động đặc biệt nào. Bạn không thể bị trói buộc nếu bạn muốn theo sát bất kỳ điều gì. Muốn hiểu rõ về chính bạn, phải có sự tỉnh thức, sự tỉnh táo của cái trí mà trong đó có tự do khỏi tất cả những niềm tin, khỏi tất cả sự lý tưởng hóa, bởi vì những niềm tinlý tưởng chỉ cho bạn một màu sắc, làm biến dạng sự nhận biết trung thực. Nếu bạn muốn biết bạn là gì, bạn không thể tưởng tượng hay có niềm tin trong điều gì đó mà bạn không là. Nếu tôi tham lam, ganh tị, hung bạo, chỉ có một lý tưởng của không-bạo lực, không-tham lam, chẳng có giá trị bao nhiêu. Nhưng thấy rằng người ta tham lam hay bạo lực, nắm chặthiểu rõ nó, cần một nhận biết lạ thường, đúng chứ? Nó đòi hỏi sự chân thật, sự rõ ràng của tư tưởng, trái lại theo đuổi một lý tưởng tách khỏi cái gì là là một tẩu thoát; nó ngăn cản bạn không phát giác và hành động trực tiếp vào cái gì bạn là. 

Hiểu rõ bạn là gì, dù nó là gì chăng nữa – xấu xí hay đẹp đẽ, quỉ quyệt hay ma mãnh – hiểu rõ bạn là gì, mà không biến dạng, là sự khởi đầu của đạo đức. Đạo đức là tối thiết, bởi vì nó mang lại tự do. Chỉ trong đạo đức bạn mới có thể khám phá, bạn mới có thể sống – không phải trong sự vun quén của một đạo đức, mà chỉ tạo ra sự kính trọng, không-hiểu rõ và không-tự do. Có một sự khác biệt giữa ‘đạo đức’ và ‘trở thành đạo đức’. Đạo đức hiện diện qua hiểu rõ cái gì là, trái lại trở thành đạo đức là sự trì hoãn, sự che đậy cái gì là bằng cái gì bạn muốn là. Vì vậy trong trở thành đạo đức bạn đang lẩn tránh hành động trực tiếp vào cái gì là. Qui trình lẩn tránh cái gì là này qua sự vun quén của lý tưởng được nghĩ là đạo đức; nhưng nếu bạn quan sát nó một cách kỹ càng và thẳng thắn, bạn sẽ thấy rằng nó không thuộc loại này. Nó chỉ là một trì hoãn của đối diện cái gì là. Đạo đức không phải trở thành cái gì không là; đạo đứchiểu rõ cái gì là và vì vậy tự do khỏi cái gì là. Đạo đứccốt lõi trong một xã hội đang bị phân rã mau lẹ. Với mục đích tạo ra một thế giới mới mẻ, một cấu trúc mới mẻ khỏi cái cũ kỹ, phải có tự do để khám phá; và muốn tự do, phải có đạo đức, bởi vì nếu khôngđạo đức không có tự do. Liệu một con người vô luân mà đang cố gắng trở thành đạo đức có khi nào biết được đạo đức? Con người không-đạo đức không bao giờ được tự do, và vì vậy anh ấy không bao giờ có thể tìm ra sự thật là gì. Sự thật có thể tìm được chỉ trong hiểu rõ cái gì là, và muốn hiểu rõ cái gì là, phải có tự do, tự do khỏi sợ hãi cái gì là.

Muốn hiểu rõ tiến hành đó phải có ý định hiểu rõ cái gì là, theo sát mỗi suy nghĩ, mỗi cảm thấy và mỗi hành động; và cực kỳ khó khăn để hiểu rõ cái gì là, bởi vì cái gì là không bao giờ cố định, không bao giờ bất động, nó luôn luôn chuyển động. Cái gì là là cái gì bạn là, không phải cái gì bạn muốn là; nó không là lý tưởng, bởi vì lý tưởngảo tưởng, nhưng nó thực sự là bạn đang làm gì, đang suy nghĩ gì và đang cảm thấy gì từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Cái gì là là thực tại, và muốn hiểu rõ thực tại cần sự nhận biết, một cái trí nhạy bén, rất tỉnh táo. Nhưng nếu chúng ta bắt đầu chỉ trích cái gì là, nếu chúng ta bắt đầu chê trách hay chống cự nó, vậy thì chúng ta không hiểu rõ chuyển động của nó. Nếu tôi muốn hiểu rõ một người nào đó, tôi không thể chỉ trích anh ấy: tôi phải quan sát, học hành về anh ấy. Tôi phải thương yêu chính sự việc tôi đang học hành. Nếu bạn muốn hiểu rõ một em bé, bạn phải thương yêu và không chỉ trích em. Bạn phải nô đùa cùng em, nhìn ngắm những chuyển động của em, những đặc điểm của em, cách cư xử của em; nhưng nếu bạn chỉ chỉ trích, kháng cự hoặc chê trách em, không có hiểu rõ về em bé. Tương tự như thế, muốn hiểu rõ cái gì là, người ta phải quan sát người ta suy nghĩ, cảm thấy và làm gì từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Đó là thực tại. Bất kỳ hành động nào khác, bất kỳ lý tưởng hay hành động thuộc học thuyết nào khác, không là thực tại; nó chỉ là một ao ước, một ham muốn tưởng tượng để là một cái gì đó khác hẳn cái gì là.

Muốn hiểu rõ cái gì là yêu cầu một trạng thái của cái trí mà trong đó không có sự đồng hóa hay sự chỉ trích, mà có nghĩa một cái trí tỉnh táo nhưng thụ động. Chúng ta ở trong trạng thái đó khi chúng ta thực sự đam mê muốn hiểu rõ về điều gì đó; khi sự mãnh liệt của quan tâm hiện diện ở đó, trạng thái đó của cái trí hiện diện. Khi người ta quan tâm hiểu rõ cái gì là, trạng thái thực sự của cái trí, người ta không cần cưỡng bách, kỷ luật, hay kiểm soát nó; trái lạitỉnh thức thụ động, cảnh giác. Trạng thái tỉnh thức này hiện diện khi có đam mê, ý định để hiểu rõ.

Hiểu rõ cơ bản về chính mình không xảy ra qua hiểu biết hay qua tích lũy những trải nghiệm, mà chỉ là sự vun quén của ký ức. Hiểu rõ về chính mình là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc; nếu chúng ta chỉ tích lũy hiểu biết về chính chúng ta, chính hiểu biết đó ngăn cản hiểu rõ thêm nữa, bởi vì hiểu biết và trải nghiệm được tích lũy trở thành trung tâm mà qua đó tư tưởng tập trung và có sự tồn tại của nó. Thế giới không khác biệt chúng ta và những hoạt động của chúng ta, bởi vì chính điều gì chúng ta là mới tạo ra những vấn đề của thế giới; sự khó khăn của đa số chúng ta là rằng, chúng ta không biết một cách trực tiếp về chính chúng ta, nhưng chúng ta tìm kiếm một hệ thống, một phương pháp, một phương tiện của vận hành để nhờ đó giải quyết nhiều vấn đề của nhân loại.

Bây giờ liệu có một phương tiện, một hệ thống, để hiểu rõ về chính mình, hay không? Bất kỳ một người thông minh, bất kỳ một người triết lý, đều có thể sáng chế một hệ thống, một phương pháp; nhưng chắc chắn sự tuân theo một hệ thống sẽ chỉ sản sinh một kết quả được tạo ra bởi hệ thống đó, phải không? Nếu tôi tuân theo một phương pháp đặc biệt để hiểu rõ về chính tôi, vậy thì tôi sẽ có kết quả mà hệ thống đó đòi hỏi; nhưng chắc chắn, kết quả không là hiểu rõ về chính tôi. Đó là bằng cách tuân theo một hệ thống, một phương pháp, một phương tiện mà nhờ đó hiểu rõ về chính tôi, tôi định hình suy nghĩ của tôi, những hoạt động của tôi, tùy theo một khuôn mẫu; nhưng sự tuân theo một khuôn mẫu không là hiểu rõ về chính mình.

Vì vậy không có phương pháp dành cho hiểu rõ về chính mình. Tìm kiếm một phương pháp luôn luôn hàm ý sự ham muốn để đạt được kết quả nào đó – và đó là điều gì tất cả chúng ta đều mong muốn. Chúng ta tuân theo uy quyềnnếu khônguy quyền của một người, vậy thì uy quyền của một hệ thống, của một học thuyết – bởi vì chúng ta muốn một kết quả mà sẽ gây thỏa mãn, mà sẽ cho chúng ta an toàn. Chúng ta thực sự không muốn hiểu rõ về chính chúng ta, những thôi thúc và những phản ứng đột ngột của chúng ta, toàn qui trình suy nghĩ của chúng ta, tầng ý thức bên ngoài cũng như tầng ý thức bên trong; chúng ta thích theo đuổi một hệ thốngbảo đảm cho chúng ta một kết quả. Nhưng sự theo đuổi một hệ thống luôn luôn là kết quả của ham muốn cho an toàn, cho chắc chắn, và rõ ràng, kết quả không là hiểu rõ về chính mình. Khi chúng ta tuân theo một phương pháp, chúng ta phải có những uy quyền – người dẫn dắt, vị đạo sư, Đấng Cứu rỗi, Bậc Thầy – mà sẽ bảo đảm cho chúng ta điều gì chúng ta khao khát; và chắc chắn đó không là phương cách để hiểu rõ về chính mình.

Uy quyền ngăn cản hiểu rõ về chính mình, đúng chứ? Trong sự ẩn náu của một uy quyền, một hướng dẫn, có lẽ tạm thời bạn có một ý thức của an toàn, một ý thức của hưng thịnh, nhưng đó không là hiểu rõ về toàn qui trình của chính mình. Trong chính bản chất của nó, uy quyền ngăn cản ý thức trọn vẹn về chính mình, và thế là cuối cùng hủy diệt tự do; chỉ trong tự do mới có sáng tạo. Có thể có sáng tạo chỉ qua hiểu rõ về chính mình. Hầu hết chúng ta đều không sáng tạo; chúng ta là những cái máy lặp lại, những máy đĩa đang hát đi hát lại vài bài hát nào đó của trải nghiệm, những kết luận và những kỷ niệm nào đó, hoặc của riêng chúng ta hoặc của người khác. Sự lặp lại như thế không là ‘đang hiện diện’ sáng tạo – nhưng đó là điều gì chúng ta mong muốn. Bởi vì chúng ta muốn được an toàn phía bên trong, chúng ta liên tục đang tìm kiếm những phương pháp và những phương tiện cho sự an toàn này, và thế là chúng ta tạo ra uy quyền, sự tôn sùng một người khác, mà hủy hoại hiểu rõ, sự yên lặng tự phát của cái trí mà trong chính nó có một trạng thái sáng tạo.

Chắc chắn khó khăn của chúng ta là hầu hết chúng ta đã mất đi ý thức của sáng tạo này. Sáng tạo không có nghĩa chúng ta phải vẽ những bức tranh hay viết những bài thơ và trở nên nổi tiếng. Đó không là sáng tạo – nó chỉ là khả năng diễn tả một ý tưởng, mà công chúng hoan nghênh hay không hoan nghênh. Không nên lẫn lộn giữa khả năng và sáng tạo. Khả năng không là sáng tạo. Sáng tạo là một trạng thái của đang hiện diện hoàn toàn khác hẳn, đúng chứ? Nó là một trạng thái trong đó ‘cái tôi’ không còn, trong đó cái trí không còn là một tập trung của những trải nghiệm của chúng ta, những tham vọng của chúng ta, những theo đuổi của chúng ta và những ham muốn của chúng ta. Sáng tạo không là một trạng thái liên tục, nó mới mẻ từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, nó là một chuyển động mà trong đó không có ‘cái tôi’, ‘cái của tôi’, trong đó tư tưởng không bị tập trung vào bất kỳ trải nghiệm, tham vọng, thành tựu, mục đích và động cơ đặc biệt nào. Có sáng tạo chỉ khi nào cái tôi không hiện diệntrạng thái của hiện diện đó, một mình nó, có thể có Sự thật, sự Sáng tạo của tất cả mọi sự vật. Nhưng trạng thái đó không thể bị hình dung hay tưởng tượng, nó không thể bị định hình hay sao chép, nó không thể kiếm được qua bất kỳ hệ thống, qua bất kỳ triết lý, qua bất kỳ kỷ luật nào; trái lại, nó hiện diện chỉ qua hiểu rõ về toàn qui trình của chính mình.

Hiểu rõ về chính mình không là một kết quả, một kết luận cuối cùng; nó là đang thấy chính mình từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc trong cái gương của sự liên hệliên hệ của người ta với tài sản, với những sự vật, với những con người và với những ý tưởng. Nhưng chúng ta phát giác rằng tỉnh thức, nhận biết là việc quá khó khăn, và chúng ta thích làm đờ đẫn những cái trí của chúng ta bằng cách tuân theo những phương pháp, bằng cách chấp nhận những uy quyền, những mê tín và những lý thuyết gây thỏa mãn; vì vậy cái trí của chúng ta trở nên mệt mỏi, kiệt sức và vô cảm. Một cái trí như thế không thể ở trong một trạng thái sáng tạo. Trạng thái sáng tạo đó hiện diện chỉ khi nào cái tôi, mà là qui trình của công nhậntích lũy, không còn tồn tại; bởi vì, rốt cuộc, ‘trạng thái ý thức’ như ‘cái tôi’ là trung tâm của sự công nhận, và sự công nhận chỉ là qui trình của sự tích lũy trải nghiệm. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ hãi khi ‘không là gì cả’, bởi vì tất cả chúng ta đều muốn là một cái gì đó. Một người nhỏ nhen muốn là một người cao quý, người không đạo đức muốn là người đạo đức, người yếu ớt và hèn kém khao khát quyền lực, vị tríuy quyền. Đây là hoạt động không ngừng nghỉ của cái trí. Một cái trí như thế không thể yên lặng và vì vậy không bao giờ có thể hiểu rõ trạng thái sáng tạo.

Với mục đích thay đổi thế giới quanh chúng ta, cùng những đau khổ, chiến tranh, thất nghiệp, đói khát, phân chia giai cấp và sự hỗn loạn hoàn toàn của nó, phải có một thay đổi trong chính chúng ta. Cách mạng phải bắt đầu trong chính một người – nhưng không phụ thuộc vào bất kỳ niềm tin hay học thuyết, bởi vì cách mạng được đặt niềm tin vào một ý tưởng, hay trong tuân phục đến một khuôn mẫu đặc biệt, chắc chắn không là cách mạng gì cả. Muốn tạo ra một cách mạng cơ bản trong chính người ta, người ta phải hiểu rõ toàn qui trình của tư tưởngcảm thấy của người ta trong liên hệ. Đó là giải pháp duy nhất cho tất cả những vấn đề của chúng ta – không phải để có nhiều kỷ luật hơn, nhiều niềm tin hơn, nhiều học thuyết hơn và nhiều vị thầy hơn. Nếu chúng ta có thể hiểu rõ về chính chúng ta như chúng ta là, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc mà không có qui trình của tích lũy, vậy thì chúng ta sẽ thấy một yên lặng hiện diện mà không là một sản phẩm của cái trí, một yên lặng mà không bị tưởng tượng hay bị vun quén; và chỉ trong yên lặng đó mới có thể có sáng tạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14285)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14556)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11836)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14342)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13255)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14617)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12630)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25193)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27840)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26318)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17199)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16519)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15891)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22097)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17118)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24856)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21928)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19053)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16155)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21697)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16763)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14649)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16678)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25011)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18764)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21191)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14758)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14364)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16600)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 17999)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12894)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14931)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12689)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13877)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14593)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27965)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27141)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14329)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20914)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14660)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24153)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28627)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14724)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13277)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16424)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27192)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 11991)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16050)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21429)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12359)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant