Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

31. “Đừng giữ lại những kỷ niệm của bạn ấy trong cái trí của bạn...

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8736)
31. “Đừng giữ lại những kỷ niệm của bạn ấy trong cái trí của bạn...

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 5

THAY ĐỔI TẦM NHÌN

1962-1977

CHƯƠNG 31

“Đừng giữ lại những kỷ niệm của bạn ấy trong cái trí của bạn,

việc đó níu kéo bạn ấy lại quả đất này. Hãy thả cho bạn ấy đi.”

K

rishnaji quay lại Delhi qua Lufthansa ngày 26 tháng mười năm 1981; anh đã bị bệnh và rất yếu ớt. Asit theo cùng anh. Tổng thống của Ấn độ, Shri Sanjeeva Reddy, một học sinh cũ của Rishi Valley, đã gửi một lá thư qua một trong những người phụ tá đề nghị rằng Krishnaji ở cùng tổng thống khi anh ở Delhi. Bệnh tật của anh đã được giải thích cho tổng thống và người ta quyết định rằng tổng thống sẽ đãi một bữa ăn trưa cho Krishnaji trong khi anh ở Delhi.

 Một ngày sau khi anh đến, Krishnaji bắt đầu nói với tôi về Indira. Anh muốn biết bạn ấy có loại cái trí nào. Liệu có ý thức của toàn cầu trong bạn ấy? Liệu bạn ấy nhận biết được sự khủng hoảng đang thách thức nhân loại? Tôi trả lời rằng tôi cảm thấy bạn ấy có một ý thức của toàn cầu và có thể thấy những vấn đề trong một tổng thể. Tiếp theo Krishnaji hỏi liệu bạn ấy có thể không còn là người quốc gia. Tôi nói, không, bạn ấy không thể như thế và vẫn còn là thủ tướng. Sau đó anh bắt đầu nói về cuộc chạy đua vũ trang. Anh phiền muộn rất nhiều về những nguy hiểm mà nhân loại sẽ gặp phải. Anh cũng có những tiên đoán về Indira. Đang có sự gia tăng thoái hóa và bạo lực ở Ấn độ, và bạo lực sẽ tăng mau hơn. “Liệu bạn ấy có thể hành động và kiểm soát nó?” Anh hỏi. “Bạn ấy rất mong manh.”

 Tiếp theo tôi hỏi anh, tại sao, trong nhiều năm qua, anh đã quá quan tâm đến Indira. Anh tìm thấy gì trong bạn ấy? Anh dò dẫm, chất vấn chính anh, và nói đó là một nghi vấn mới mẻ; anh có vẻ bị khích động bởi nó. Anh đã giữ bạn ấy trong ý thức của anh trong một khoảng thời gian. Anh cảm thấy anh có thể yên lặng hiệp thông cùng bạn ấy. Chúng tôi bị ngắt ngang, và bàn luận vẫn còn chưa xong.

 Indira mời Krishnaji dùng trà, và đang chờ anh ngoài hành lang. Họ ở cùng nhau hai tiếng đồng hồ, và cuối cùng bạn ấy đến phòng ăn, nơi tôi đang chờ cùng Sonia và Maneka, và hỏi giờ. Khi bạn ấy nghe nói đã bảy giờ ba mươi, bạn ấy cười và nói bạn ấy đã mất đi dấu vết của thời gian và đã lỡ một cuộc họp. Bạn ấy đưa con cái vào phòng và chúng được giới thiệu cho Krishnaji. Chốc lát sau, Indira đến cửa và tiễn chúng tôi ra về. Krishnaji rất yên lặng trên đường trở về. Sau đó, anh sẽ bảo với tôi rằng anh đã cảm thấy sự căng thẳng vô cùng trong nhà; những cảm xúc mạnh mẽ bị đè nén và sự hận thù âm ỉ nào đó. Anh đã hỏi Indira liệu có những vấn đề gì trong gia đình, và bạn ấy trả lời, “Những cãi cọ thông thường, như trong mọi gia đình.” Nhưng Krishnaji không thỏa mãn. Anh cảm thấy có sự bạo lực và cái gì đó rất sai trái trong bầu không khí.

 Ngày 2 tháng mười một chúng tôi đến dùng bữa trưa tại Rashtrapati Bhavan, nơi cư ngụ của tổng thống. Achyut, Narayan, Nandini, và tôi theo cùng Krishnaji, mặc một dhoti viền đỏ và một kurta được làm bằng một tussar[9] xe bằng tay xù xì có màu vỏ cây lạt. Một angavastram thả trên vai của anh. Cao, lưng thẳng, yên lặng, cùng thái độ nghiêm túc và hai mắt long lanh tỏa từ bi, đó là một bậc hiền nhân tỏa sáng đang đi vào biểu tượng của uy quyền này. Tổng thống, Sanjeeva Reddy, tiếp đón Krishnaji bằng sự kính trọng vô cùng, bởi vì đó là truyền thống của quốc gia này. S. Venkataraman, người đã biết Krishnaji trong nhiều năm, bắt đầu một nói chuyện. Indira đi vào vài tích tắc sau. Giống như một thiếu nữ lanh lợi, hai mắt sáng lên, bạn ấy chạy đến chào hỏi Krishnaji.

 Tại bữa ăn trưa, bạn ấy quả quyết nói chuyện với Krishnaji bằng tiếng Pháp. Tiếng Pháp của Krishnaji rất hoàn hảo, và có một hiểu biết rộng trong anh gây hài lòng cho bạn ấy. Bạn ấy nhận thấy rằng tổng thống bị kích thích và rất tò mò. Tổng thống cứ nghiêng người lắng nghe và có vẻ thất vọng, bởi vì không thể hiểu rõ điều gì đang được nói. Sau bữa trưa Krishnaji được tổng thống tiễn về tại cửa của Rashtrapati Bhavan. Đó là một dịp giải lao vui vẻ không thể quên được.

 Krishnaji quay lại Delhi từ Varanasi vào đầu tháng 12 năm 1981. Indira đến ăn tối tại nhà. Nó là ngày của thảm kịch Qutub Minar; một xô đẩy đột ngột của một nhóm học sinh trong cầu thang xoắn ốc của Qutub (một tháp chiến thắng được xây dựng tại thế kỷ thứ mười hai bởi người cai trị Qutbudin Aibak), và bốn mươi em học sinh đã bị chết. Bạn ấy đã đến thẳng đây từ hiện trường của tai nạn, từ sự kinh hoàng của những thân thể bị cắt nát và những cha mẹ điên loạn vì đau khổ. Mặt của bạn ấy căng ra và gầm gầm, hai mắt sa sầm. Bạn ấy ở cùng anh trên một tiếng đồng hồ. Khi họ ra ngoài để dùng bữa tối, mặt của bạn ấy đã dịu bớt, mặc dù hai mắt vẫn còn hằn sâu sự đớn đau của việc gì bạn ấy đã nhìn thấy.

 Nói chuyện tại bữa ăn chuyển về những việc xảy ra kỳ quái ở Ấn độ vượt khỏi sự nhận biết của con người. Krishnaji kể một câu chuyện vào đầu những năm 1920, khi anh và Nitya ở Varanasi. Một người đàn ông nghèo khổ đi vào khuôn viên nơi họ đang sống. Sau khi nói chuyện rất lâu với họ, ông ấy đã xin một tờ báo và đặt nó ở xa xa. Tiếp theo ông ấy bảo Krishanji cứ nhìn vào tờ báo. K nhìn cho đến khi nó nhỏ hơn và nhỏ hơn và cuối cùng biến mất. Người thực hiện ma thuật không nhận bất kỳ đồng bạc nào cho việc làm này, và đi khỏi.

 L. K. Jha nói rằng ở Darbhanga, nơi anh ấy được nuôi nấng, có một thầy tantrik mà là đạo sư của gia đình. Sau một vụ trộm đạo sư đã gọi L. K., lúc đó là một cậu bé, và thả một giọt thuốc nhỏ mắt trên ngón cái của cậu. Vị tantrit bảo cậu nhìn chú ý vào giọt thuốc. Khi L. K. nhìn, màu đen biến mất và cậu thấy một người đàn ông đi về hướng một đống cỏ khô để giấu cái gì đó. Người đàn ông quay lại, và cậu thấy khuôn mặt rất rõ ràng. Sau đó, cậu diễn tả khuôn mặt cho thầy tantrit, tên ăn trộm bị bắt giữ, và vật đó được tìm thấy trong đống cỏ.

 Indira kể cho chúng tôi một câu chuyện xảy ra tại số 12 Willingdon Crescent. Narain Dutt Tiwari (người trở thành bộ trưởng chính của Uttar Pradesh) đưa một người đàn ông mặc một kurtadhotisiddhi hay khả năng này đã đến với ông ấy mà không cần thực hành bất kỳ những tham thiền nào. Nó là ý muốn của nữ thần và có thể biến mất dễ dàng như nó được trao tặng cho ông ấy. Ông ấy khiêm tốn về những khả năng của ông ấy và lặp lại rằng ông ấy chẳng có trách nhiệm gì cho việc gì đã xảy ra. đơn giản đến gặp Indira. Ông ấy được gọi là “Balti Baba” hay “Thánh xô nước.” Ông ấy xin một xô có nước và đề nghị Indira viết một câu hỏi trên tờ giấy. Vì bạn ấy ngần ngừ, Narain Dutt Tiwari viết ra một câu hỏi bằng tiếng Hindu, gấp nó lại và đặt nó dưới cái xô. Sau đó Balti Baba xin một miếng giấy sạch khác và chút sữa. Miếng giấy được đặt trong nước bên trong cái xô và sữa được đổ ra trên nước và miếng giấy. Họ chờ khoảng hai phút. Sau đó miếng giấy được lấy ra khỏi nước. Chữ viết bằng tiếng Hindi đã biến mất cả hai mặt. Mặc dù bị nhòe, đọc nó rất dễ và đã cho một câu trả lời liên quan đến câu hỏi. Balti Baba kể rằng

 Rồi đến phiên tôi. Tôi kể lại những xảy ra lạ lùng ở Himmat Nivas, Dongersey Road, khi Krishnaji đang ở đó như khách của tôi. Một buổi sáng hai người đàn ông mặc áo cà sa gõ cửa. Một người đã già và phải bước đi nhờ một cây gậy; người khác còn trẻ tuổi. Người trẻ nói rằng họ đến từ Rishikesh và đang hành hương đến Rameswaram. Khi họ đang đi trên Ridge Road ở Bombay, sannyasi già, nổi tiếng vì những thấu triệt của ông ấy, cảm thấy sự hiện diện của một Đấng Vĩ đại trong vùng lân cận. Ông ấy đã đến ngôi nhà này, sự hiện diện của Đấng Vĩ đại đang soi sáng con đường cho ông ấy. Ông ấy bảo với tôi rằng ông ấy muốn gặp Đấng Mahatma đã ở trong nơi này. Vì biết Krishnaji rất quan tâm đến chiếc áo cà sa, tôi mời họ vào nhà và nói với Krishnaji, ngay tức khắc anh ra khỏi phòng và ngồi cùng họ trên một tấm thảm.

 Krishnaji cầm tay vị sannyasi già. Họ ngồi yên lặng một lúc, sau đó người đàn ông già quay về phía tôi và nói, “Con gái, lấy giùm tôi chút nước.” Tôi mang lại một chai nước và vài cái ly. Sau đó ông ấy yêu cầu tôi lấy một thali, một bình chứa bằng kim loại, và đổ nước qua hai bàn tay của ông ấy để cho nó chảy xuống bình. Sau đó ông ấy bảo chúng tôi hớp một ngụm nước. Ngạc nhiên thay, Krishnaji uống nó; thali được chuyền quanh và mọi người đều làm một ngụm nước. Nó là nước đơn thuần. Tiếp theo sadhu vị thánh khổ hạnh yêu cầu tôi đổ hết nước trong thali đi và lại đổ nước qua hai bàn tay của ông ấy xuống thali. Ông ấy lại yêu cầu chúng tôi hớp một ngụm; và khi tôi nếm nước đó, tôi phát giác nó có mùi thơm và có hương vị của nước hoa hồng. Không ai bình phẩm.

 Sau đó sannyasi già hướng về tôi và nói, “Dakshina do, Cho tôi của bố thí.” Tôi cảm thấy bục bội; nhưng bởi vì Krishnaji, đang quan sát rất chú ý, hiện diện ở đó, tôi thấy rằng tôi không thể từ chối. Thế là tôi đưa cho ông ấy 50 rupees. Ông ấy nói, “Không, cho tôi 100.” Đến lúc này, tôi rất tức giận và cảm thấy tôi đang bị lừa bịp; tôi thấy rằng Krishnaji đang nhìn tôi. Thế là tôi cho người đàn ông già 100 rupees. Khi tôi đưa nó, sannyasi già trả lại tiền, nói, “Nhận lại nó, con gái. Ta đang thử ngươi.” Ngay tức khắc, nền quá khứ Ấn độ của tôi đáp lại. Tôi nói với ông ấy rằng một lần dakshina được trao đi, nó không thể được nhận lại.

 Sadhu già nói, “Ta rất hài lòng với con, hãy xin bất kỳ điều gì ngươi ao ước.” Lời đề nghị kinh hãi quá. Tôi trả lời, “Không có gì tôi ao ước cả.” Thánh sadhu già ban phước cho tôi, sau đó hướng về Sunanda. “Ngươi không có con cái – hãy xin một đứa con.” Đúng sự thật là em đang mong một đứa con, nhưng em cũng trả lời, “Swamiji, con không muốn gì cả.” Sau đó vị thánh hướng về Balasundaram và nói, “Ngươi cũng không có con. Cầu xin đi.” Balasundaram kinh ngạc và lắc đầu. Krishnaji quan sát bằng chú ý mãnh liệt.

 Và lúc này sannyasi hướng về Krishnaji, gập người xuống, xin phước lành của anh, bày tỏ sự thành kính của ông ấy, và xin phép tiếp tục chuyến hành hương. Sau khi hai swami áo cà sa đi khỏi, Krishnaji quay về phía tôi và hỏi, “Bạn có nếm nước hoa hồng không?” Tất cả chúng tôi đều nói rằng chúng tôi cảm thấy mùi thơm và hương vị của nó. Krishnaji nói, “Ông già thực hiện nó bằng cách nào? Tôi quan sát ông ấy rất cẩn thận. Ông ấy không thể bỏ bất kỳ thứ gì vào nước.”

 Indira nán lại sau bữa tối, miễn cưỡng phải rời. Nhưng trễ quá rồi, và bạn ấy tạm biệt Krishnaji rồi về nhà. Anh mỉm cườicảm thấy hạnh phúc cho bạn ấy.

 Indira viết cho Krishnaji tháng giêng năm 1982. Lá thư đi lạc, và bạn ấy viết lại vào tháng bảy:

Krishnaji kính mến,

Pupul đã gửi cho tôi lá thư của anh đề ngày 21 tháng sáu. Tôi xin lỗi vì lá thư trước không đến anh. Rõ ràng, người Anh không thực hiện đúng hình ảnh về sự hiệu quả mà họ đã tuyên truyền ở Ấn độ.

Không có gì quan trọng trong lá thư cả. Chỉ là sự biết ơn sâu thẳm của tôi về sự quan tâm của anh và ngay lúc này tôi cần đến nó lắm. Đây là một thời điểm rất buồn bã. Liệu thế giới đã đến một kết thúc? Càng ngày càng nhiều người đang nhận ra điều gì sai trái và điều gì có thể được làm. Tuy nhiên, chúng ta trôi giạt trong phương hướng đối nghịch. Một nhúm người có quyền hành gây ảnh hưởng những sống của tất cả hàng triệu nguời đang cư ngụ trên quả đất này. Cũng vậy vài người tự-bao bọc chính họ và điều gì họ nghĩ rằng những lợi ích lập tức dựa vào thời giankhông gian, và nhiều người lại sẵn lòng bị xô đẩy trong ảo tưởng rằng họ được tự do và đang hướng dẫn những sống riêng của họ. Thế giới cần tinh thần từ biphương hướng của anh để nhìn vào chính họ và sự can đảm để hành động theo đó.

 Cùng sự kính trọng vô cùng.

 Kính mến,

 Indira

 Indira sẽ viếng thăm nước Mỹ. Trước khi đi, bạn ấy cùng gia đình có một kỳ nghỉ ngắn ở Kashmir. Làn sóng tuyệt vọng đã tan biến. Bạn ấy viết cho tôi, “Tôi đưa gia đình đến nghỉ ở Kashmir vài ngày. Thật ra chỉ có nguyên một ngày được gọi là nghỉ ngơi và thư giãn nhưng nó là một thay đổi tuyệt vời. Chúng tôingoài trời tại Dachigam – một khu bảo tồn động vật hoang dã, đi bộ nhiều, đuổi theo những con gấu hoang trong rừng. Ngoài ra, vẻ đẹp của thung lũng trong chính nó là một liều thuốc bổ. Tôi có hai gặp gỡ ngắn với Pandit Laxman Joo. Lần đâu tiên, ông ấy cho tôi bánh mì Paratha thông thường của ông ấy và nhiều con chim chào mào đến đậu trên vai và đầu gối của tôi để chia sẻ nó.”

 Đầu tháng mười một năm 1982, Krishnaji quay lại New Delhi. Anh sẽ gặp lại Indira tại bữa ăn tối ở số 11 Safdarjung Road. Rajiv theo cùng mẹ. Thoạt đầu bạn ấy đã kể với tôi rằng, suốt vài tuần vừa qua, bạn ấy không ngủ được và thức dậy giữa hai hay ba giờ mỗi sáng, cùng một cảm giác lo lắng lạ lùng. Có những đồn đại ở Delhi rằng những đối thủ của bạn ấy đã thực hiện mọi loại âm mưu hiểm độc và nhờ vả những nghi lễ ma thuật xấu xa để hủy diệt bạn ấy. Suốt ba đêm bạn ấy đã nằm mơ thấy một mụ phù thủy già gớm guốc tìm cách hãm hại bạn ấy nhưng không thành công, bởi vì một con người tỏa sáng có một bộ râu quai nón đang bảo vệ bạn ấy.

 Indira muốn gặp lại Krishnaji trước khi anh rời Delhi ba ngày sau. Sắp xếp gặp gỡ rất khó khăn, bởi vì Krishnaji đang thực hiện những nói chuyện trước công chúng vào hai ngày kế tiếp. Cuối cùng nó được quyết định rằng anh sẽ đến gặp tại nơi ở của bạn ấy sau nói chuyện cuối cùng của anh ngày Chủ nhật. Chúng tôi rất ngạc nhiên, bởi vì anh không bao giờ đi đâu cả sau một nói chuyện.

 Indira chờ anh chiều Chủ nhật đó. Trong suốt nói chuyện của họ, bạn ấy nói rằng sự lo lắngđánh thức bạn ấy mỗi đêm không còn nữa và những giấc mơ cũng thế. Bạn ấy có thể ngủ rất ngon. Không khí trong nơi ở đã trở nên yên lặng. Krishnaji sẽ bình phẩm về nó cho tôi sau này. Suốt gặp gỡ, Krishnaji hỏi liệu bạn ấy có được bảo vệ an ninh. Bạn ấy trả lời có nhiều lắm nhưng chắc chắn rằng chẳng người nào sẽ liều lĩnh mạng sống của họ để bảo vệ bạn ấy.

 Sau đó, Krishnaji rời Delhi để đi đến Madras. Indira viết cho anh để hỏi anh về bản chất của sự thậtthực tế. Anh trả lời tức khắc. Tôi không hiểu liệu thư từ có thêm nữa hay không, nhưng rõ ràng rằng sự tìm hiểu phía bên trong nằm im lìm nhiều năm trong Indira đang thức dậy lại.

 Đối với Indira, 1983 là năm của số mạng. Bạn ấy sẽ đảm dương một vai trò quan trọng trên chặng đường của thế giới; nhưng bên trong Ấn độ, những cơn bão đang thâu gom sức mạnh. Những quốc gia quanh Ấn độ đang sôi sục. Khi những chân trời của Ấn độ được mở rộng, những gánh nặngtrách nhiệm gia tăng; và cùng nó là những đòi hỏi lạ thường về thời giannăng lượng của bạn ấy. Để gặp gỡ sự thách thức này, từ tháng sáu 1983 bạn ấy đã áp dụng một kỷ luật chặt chẽ cho thân thể, ăn uống thật đạm bạc để giảm trọng lượng. Năng lượng của bạn ấy rất thần kỳ – ngày làm việc của bạn ấy trên mười tám tiếng đồng hồ. Được chải thật công phu, hai dải tóc bạc hất ngược khỏi trán, khiến cho thân thể mảnh mai, vững vàng trở thành cao quý và thanh lịch.

 Nói chuyện của bạn ấy phản ảnh những quan tâm luôn luôn mở rộng. Nhận biết được sự khủng hoảng không tiền lệ sẽ hủy diệt thế giới, có một cấp bách thiết tha trong sự kêu gọi giải trừ quân bị của bạn ấy. Từ những thấu triệt thâu lượm trong cô đơn, bạn ấy thốt lên sự quan tâm phải có những liên hệ cốt lõi được cần đến để kết nối thế giới và tài nguyên của nó thành một tổng thể không bị phân chia.

 Nhân loại, di sản, sinh thái là những từ ngữ đã tạo cho bạn ấy một ý nghĩa mới mẻ và sâu sắc. Những bức tường bảo vệ mà bạn ấy đã dựng lên quanh mình trong thời niên thiếu được phá sập; bạn ấy nhạy cảmtỉnh thức.

 Mùa đông năm 1983, tình thế đã rõ ràng rằng quốc gia sẽ phải đối diện những nguy hiểm nghiêm trọng. Vấn đề của Punjab đang trở nên khó khăn cực kỳ. Krishnaji gặp Indira đầu tháng mười một, và họ đã nói chuyện rất lâu. Tại Rishi Valley anh đưa tôi một lá thư gởi cho bạn ấy, cùng một gói đựng quả na. Bạn ấy trả lời ngày 26 tháng mười hai năm 1983:

 

Krishnaji kính mến,

Pupul mang cho tôi sự hỏi thăm của anh và những quả na. Chất dinh dưỡng cho cái trí và thân thể! Cám ơn anh về sự suy nghĩ.

Tôi không biết phải viết gì bởi vì tôi đau khổ lắm. Tôi có cảm giác rằng tôi đã lạc lối trên một hành tinh không biết được. Sự khuyên răn và ham muốn để thống trị đã theo cùng chúng ta từ khi thế giới bắt đầu, hay nói khác đi từ khi chủng tộc loài người bắt đầu, nhưng chưa bao giờ trong kích cỡ này và hủy diệt như thế này. Tuy nhiên, chẳng có bao nhiêu người lưu tâm đến bất kỳ điều gì khác ngoại trừ những nhu cầu lập tức và thậm chí họ còn không cố gắng hiểu rõ điều đó. Đã có quá nhiều người đến nghe những giảng thuyết của anh, nhưng họ đã làm gì sau đó? Tại nhà hay tại chỗ làm? Giữ được sự hy vọngtrung thành là điều khó khăn cực kỳ.

Tôi có ý chỉ để cho anh biết rằng tôi đã thâu nhận những lời giảng của anh và những suy nghĩ của anh có ý nghĩa ra sao đối với tôi. Tôi xin lỗi, tôi đã phải viết dông dài, nhưng tại thời điểm này chẳng có bao nhiêu người mà người ta có thể nói chuyện và người ta cũng không cần nói chuyện với anh.

Tôi trân trọng những gặp gỡ ngắn ngủi của chúng ta.

Cùng những hỏi thăm nồng nhiệt và những ao ước tốt lành.

 Indira

 Với những điều không thể tránh khỏi của bi kịch sử thi, sống của bạn ấy đang chuyển động hướng về số mạng của nó. Nhận biết sâu sắc phương hướng và dòng chảy của những sự kiện, Krishnaji quan tâm và muốn giúp đỡ bạn ấy và chuyển tải chiều sâu của cảm thấy và lo ngại của anh. Anh đề nghị đến gặp bạn ấy tại bất kỳ thời gian nào, nếu việc đó có thể giúp ích được.

 

Indira thân mến của tôi,

Vui mừng lắm khi nhận được thư của bạn mà Pupul mang lại cách đây vài ngày.

Thật ra tôi rất hối tiếc khi bạn bị phiền muộn và buồn bã.

Thế giới đang đảo lộn, những sự việc khủng khiếp đang xảy ra; đe dọa của chiến tranh hạt nhân, sát nhân, hành hạ, và tất cả những vấn đề không thể nói được đang xảy ra. Mỗi lúc đang trở nên vô lý lạ lùng, và tôi lo ngại rằng bạn bị dính dáng vào tất cả những việc này.

 Bởi vì bạn sẽ không thể đọc được chữ viết tay của tôi, tôi hy vọng bạn sẽ không phiền khi tôi phải nhờ vào một máy đánh chữ.

Nếu bằng bất kỳ cách nào, “trong bất kỳ cách nào,” giúp ích cho bạn, tôi sẽ đến Delhi. Pupulji và tôi đã bàn bạc về vấn đề này. Tôi sẽ rời Ấn độ vào ngày 15 tháng hai. Pupulji luôn luôn có thể đưa bạn chương trình làm việc của tôi.

Tôi hy vọng bạn khỏe mạnh.

Làm ơn nhận thương yêu của tôi.

J. K.

Tôi mang lá thư đến bạn ấy. Bạn ấy cất đi để đọc sau và chúng tôi nói chuyện một lúc lâu. Năng lượng của bạn ấy đang bị suy giảm và bạn ấy nói về những nguy hiểm phía trước. Bạn ấy có những linh cảm về thảm họa và nói về những lực lượng đang âm mưu gây bất ổn định quốc gia.

Phía bên ngoài, bạn ấy bình thản, và tôi bình phẩm về nó. Bạn ấy trả lời, “Đôi khi, biển êm đềm, nhưng sâu thẳm bên trong là những chuyển động bão táp.”

Bạn ấy đã không gặp người cháu trai Varun gần một năm rồi, và tôi nhận biết được sự đau khổ trong bạn ấy bị khơi dậy do bởi sự phân ly gia đình. Sau cái chết của Sanjay, suốt hai mươi tháng Varun sống tại ngôi nhà này, cậu bé đã ngủ trong phòng của bà nội; tôi đã ngồi cùng bạn ấy khi bạn ấy chơi trốn tìm với cậu bé, hành động như người bà, ôm ấp cháu, và nói những câu chuyện trẻ con với cậu bé. Bạn ấy chối không chấp nhận việc đó, nhưng quyết định của Maneka cho cậu bé viếng thăm bạn ấy sau tháng ba năm 1983 đã làm tổn thương bạn ấy ghê lắm.

Bạn ấy viết cho Krishnaji ngày 29 tháng giêng, và tôi đem lá thư theo đến Bombay.

 

Krishnaji kính mến,

Cám ơn anh nhiều về lá thư của anh.

Anh rất chu đáo khi đề nghị đến Delhi. Tôi thực sự bị xao xuyến nhiều. Gặp anh là một trải nghiệm đặc biệt, nhưng tôi cảm thấy xấu xa khi yêu cầu anh phải ngắt ngang chương trình ở Madras của anh để đến đây khi chúng tôi đang ngụp lặn trong một con sóng lạnh lẽo. Chắc chắn tôi có thể tìm được thời gian để gặp anh nhưng hai tháng này là những tháng bận rộn đặc biệt cho tôi do bởi nhiều công việc và khách viếng thăm chính thức.

Không một ngày nào trôi qua mà không có những tin tức bồi thêm vào sự lo ngại cho tương lai của người ta. Người khoa học Mỹ, Prof. Morrison, đã giải thích kỹ càng cho tôi những hàm ý của “mùa đông hạt nhân.”

Tôi sẽ ở Bombay cho một tổng dợt Hải quân vào Chủ nhật ngày 22, và Thứ hai ngày 23 tháng hai. Nếu thuận tiện cho anh, tôi có thể ghé thăm anh ngày 12 sau 8:00 tối hoặc ngày 13 sau 6:00 chiều.

Tôi hy vọng anh giữ gìn sức khỏe.

Trân trọng nhất,

 Indira

Krishnaji đang ở tại Sterning Apartments, Peddar Road, Bombay, nơi Indira đến gặp anh vào chiều ngày 13 tháng hai. Bạn ấy trải qua khoảng trên một tiếng đồng hồ cùng anh. Anh xuống thang máy để tiễn bạn ấy ra tận xe hơi, và cầm hai bàn tay của bạn ấy khi họ chia tay. Đây là lần cuối cùng họ gặp nhau.

Tình hình ở Punjab, u ám sẵn rồi, chẳng mấy chốc bùng nổ. Những đe dọa cho mạng sống của Indira và cậu con trai Rajiv đã bắt đầu tràn vào. Tháng mười hai, kèm theo vụ ám sát Atwal, một cảnh sát thâm niên, khi ông đang rời Golden Temple sau khi cầu nguyện, tình hình càng nghiêm trọng hơn. Đầu tháng tư tôi ở Washington, D. C.; Krishnaji đã đến New York, nơi anh thực hiện những nói chuyện. Qua điện thoại tôi kể cho anh về những phát triển ở Ấn độ.

Anh hỏi tôi, liệu anh có nên nói chuyện với Indira Gandhi trên điện thoại. Người cháu trai của tôi, Asit Chandmal đang ở New York cùng anh, cuối cùng, sau nhiều khó khăn, anh liên lạc được với bạn ấy. Krishnaji chưa bao giờ học nói chuyện trên điện thoại, và nói chuyện không thể kéo dài lâu lắm; nhưng anh gửi đến Indira sự thương yêu của anh và bạn ấy đáp lại bằng sự cảm xúc vô cùng. Tôi nói với bạn ấy ngay sau đó; bạn ấy cảm ơn tôi lặp đi lặp lại nhiều lần.

Tôi sẽ đứng đầu một phái đoàn đến Delphi, Hy lạp, để tham dự một hội thảo về văn hóa được tổ chức ở đó đầu tháng sáu. Đêm trước khi đi, tôi nghe Indira phát biểu trên truyền hình. Từ sự nghiêm trọng lạ lùng của bài diễn văn và âm điệu giọng nói của bạn ấy, tôi nhận biết rằng quốc gia sắp sửa trải qua lửa đạn trong tương lai rất gần. Tôi yêu cầu người thư ký hủy bỏ ngày khởi hành đến Athens của tôi, bởi vì tôi cảm thấy tôi không nên rời Delhi. Ngày hôm sau tôi nhận được một điện thoại từ Dhawan, trợ tá riêng của Indira. Ông ấy nói thủ tưởng muốn biết tại sao tôi đã không đi Athens. Tôi nói rằng tôi sẽ giải thích khi tôi gặp bạn ấy chiều hôm đó.

Khi tôi gặp bạn ấy, bạn ấy nhất quyết bảo tôi phải đi. “Mọi việc ổn thỏa mà, Pupul,” bạn ấy nói. “Đi đi.” Bạn ấy có một lá thư đã viết cho tổng thống Hy lạp, và yêu cầu tôi đưa nó cho ông ấy cùng những hỏi thăm cá nhân của bạn ấy. Tôi gặp lại bạn ấy buổi chiều trước khi khởi hành. Bạn ấy xa cách và yên lặng. Tôi có một cảm giác rằng quyết định quan trọng đã được thực hiện; bởi vì đã thực hiện nó, bạn ấy đã lùi một bước, bởi vì tương lai không còn ở trong sự kiểm soát của bạn ấy nữa. Tôi ngồi trong phòng của bạn ấy và chúng tôi nói về Hy lạp – nghệ thuật của nó, ánh sáng thay đổi của nó, và vẻ đẹp phong cảnh của nó. Sau đó, tôi ăn tối cùng gia đình. Khi tôi đến Rome ngày hôm sau, cũng là lúc nghe rằng quân đội đã vào Golden Temple.

Tháng mười là tháng mỏng manh ở Delhi. Sự giảm sức nóng ẩm ướt và sương mai báo hiệu mùa đông. Khăn choàng đầu ấm áp xuất hiện từ những áo choàng rộng có mùi đinh hương, và những lễ hội đón mừng vụ thu hoạch của những cánh đồng mênh mông ở vùng nông thôn.

 Tôi gặp Indira nhiều lần trong suốt tháng mười năm 1984, tháng cuối cùng của cuộc đời bạn ấy. Chúng tôi ngồi cùng nhau trong phòng làm việc, bạn ấy trông thanh thản khi có một mình, đã gạt bỏ những gánh nặng và những rào cản của bạn ấy. Suốt vài tuần vừa qua bạn ấy đã gặp gỡ những người vật lý, những người triết lý, và những người làm thơ và, vào ngày 3 tháng mười một, bạn ấy sẽ dùng bữa trưa tại nhà tôi cùng Krishnaji và Dalai Lama. Đối với bạn ấy, tháng này là một tháng giải lao, một tháng nửa nọ nửa kia, một thời kỳ cho sự mới mẻ lại; bởi vì, đến tháng mười một, những chuẩn bị cho cuộc bầu cử sẽ bắt đầu. Chiều hôm đó chúng tôi bàn luận về những biểu tượng, và tôi kể với bạn ấy về Bhadrakali Shrine ở North Canara (tên địa phương cho bờ biển phía tây của Karnataka và Bắc Kerala), nơi không có hình ảnh hay hình tượng. Mẹ Vĩ đại như năng lượng được tượng trưng trong ngôi đền giống như một cái gương bằng đồng được đánh bóng láng trong đó người tôn sùng thấy khuôn mặt riêng của anh ấy hay chị ấy được phản ảnh, đang thắp sáng một hành trình vào con đường hiểu rõ về chính mình. Một hành trình của sự khổ hạnhcô đơn; bởi vì không có người nào khác, không cả thượng đế lẫn đạo sư.

 Chủ nghĩa tượng trưng đã khích động bạn ấy. Bạn ấy phản ứng thật mau lẹ, mới mẻ lại khi được phơi bày đến một chuyển động mới; một mùa xuân mới. Nhận thức rõ những gợi ý, một ký ức nảy ra và bạn ấy bắt đầu kể về một ngày trong sống của bạn ấy khi bạn ấy cảm thấy một trỗi dậy tràn ngập của hân hoan. Nó không có nguyên nhân, nhưng sự bùng nổ mãnh liệt đến độ bạn ấy cảm thấy quả đất mở toang và nuốt trọn bạn ấy. Sự ngây ngất đã thay đổi bộ mặt của bạn ấy, và mọi người bình phẩm rằng bạn ấy trông tỏa sáng. Khi bạn ấy cảm thấy rằng bạn ấy sẽ biến mất vào quả đất, nó không là một ước ao chết. Bạn ấy nói rằng chưa bao giờ sợ hãi chết tại bất kỳ tuổi tác nào. “Tôi đã cảm thấy nó như một tiến hành tự nhiên, một phần của sống. Người ta sống một số năm nào đó, và sau đó bạn chết” – bạn ấy không sợ hãi. Bạn ấy nói về một cần thiết phải quay lại gốc rễ; về suy nghĩ của Ấn độ mà khẳng định rằng “ánh sáng ở trong chính bạn,” và sự cần thiết phải tìm ra một phương cách để khám phá nó.

Tôi thấy bạn ấy lần cuối vào buổi chiều ngày 26 tháng mười. Bạn ấy sẽ viếng thăm Srinagar sáng hôm sau. Bạn ấy chưa bao giờ ở đó mùa thu, và háo hức mong chờ nhìn thấy những chiếc lá chenar hình máy bay thay đổi màu sắc. Bạn ấy muốn nằm trong ánh mặt trời và nhìn màu xanh tươi của chiếc lá chuyển thành nâu nhạt, đỏ son, và vàng; màu nâu của một chiếc lá đang rụng. Có lẽ do bởi sự kết thúc của sống trong chiếc lá mới khiến cho bạn ấy theo đuổi nghi vấn của chết. Bởi vì khi trầm tư bạn ấy nói, “Cha tôi thương yêu những con sông, nhưng tôi là một người con gái của dãy núi Himalayas và tôi đã bảo với những người con trai của tôi” – trong khoảnh khắc này dường như bạn ấy quên rằng Sanjay đã chết rồi – “rằng hài cốt của tôi nên được rải trên những dãy núi Himalayas tuyết phủ.” Khi tôi ra về, bạn ấy gọi vọng ra, “Nhớ điều gì tôi nói, Pupul, nhớ nhé.”

Krishnaji, cùng Mary Zimbalist, đến trễ vào đêm đó. Anh có chương trình cho một nói chuyện trước công chúng vào ngày 4 tháng mười một, trên cùng bục giảng như Dalai Lama. Tin tức về nói chuyện này đã đến nhiều trung tâm Phật giáoẤn độ và nước ngoài, và nhiều thầy tu Phật giáo được chờ đợi để tham dự. Chiều ngày 30 tháng mười, Krishnaji, sau một bữa ăn tối sớm, nhất quyết rằng quyển sách tôi đang viết về anh phải được đọc lớn tiếng. Mary Zimbalist đọc một phần của quyển sách, về những năm đầu khi anh sanh ra và thời niên thiếu. Sau đó, tôi đảm trách.

Krishnaji hoàn toàn bất động trong suốt thời gian đọc sách. Anh chỉ ngắt lời một lần khi anh ấy nghe tôi đọc đoạn văn về Alcyone, trong đó tôi nói rằng từ ngữ Alcyone có nghĩa “vua cá,” người làm êm dịu những cơn bão. Anh ngắt lời để sửa chữa tôi. “Không,” anh nói, “nó có nghĩa ‘vì sao sáng nhất trong chòm sao Thất tinh.’ ” Khi công việc đọc sách tiếp tục, căn phòng thức dậy như thể có một hiện diện ở đó, đang lắng nghe. Khi tôi tiếp tục, cảm thấy của Hiện diện đang choáng ngợp căn phòng, và chẳng mấy chốc tiếng nói của tôi bặt tăm. Krishnaji hướng về phía tôi, “Bạn cảm thấy Nó? Tôi có thể phủ phục xuống lạy Nó?” Thân thể của anh đang run rẩy khi anh nói về Hiện diện mà lắng nghe. “Vâng, tôi có thể phủ phục xuống lạy cái này, cái này ở đây.” Bỗng nhiên anh quay lại và bỏ mặc chúng tôibước một mình về phòng anh.

Indira Gandhi bị bắn chết bởi hai người trong số những nhân viên bảo vệ của bạn ấy vào ngày 31 tháng mười lúc 9:20 sáng, khi bạn ấy đang đi bộ từ nơi ở đến văn phòng. Lỗ chỗ bởi những viên đạn, thân thể đầy thương tích, bạn ấy ngã xuống đất, được bao bọc bởi những sự vật đang tăng trưởng. Bạn ấy ngã xuống gần bên lùm cây non kadampa mà bạn ấy vừa mới trồng mùa mưa đó, sau thảm kịch tháng sáu ở Punjab.

Khi nghe tin tức tôi vội vã chạy nhanh đến nhà của bạn ấy chỉ để thấy rằng những chướng ngại vật đã được dựng lên. Hai người cháu của Indira, Rabul và Priyanka ở một mình cùng một người bạn. Các cháu hoàn toàn không biết được việc gì đã xảy ra, nhưng tôi được bảo rằng Sonia đã vội vã đưa Indira tới bệnh viện. Bầu không khí trong ngôi nhà căng phồng bởi một ngấm ngầm của bạo lực và sợ hãi. Sharada Prasad, người cố vấn thông tin chính của bạn ấy, đang ở văn phòng, và ông ấy kể cho tôi việc gì đã xảy ra. Trước khi đi đến bệnh viện, tôi gửi một lời nhắn cho Krishnaji rằng Indira đã bị bắn chết. Tôi về nhà muộn đêm đó và thấy Krishnaji đang chờ tôi. Thấy tôi, anh dắt tôi vào phòng của anh và hỏi những chi tiết về việc gì đã xảy ra. Gia đình tôi kể lại rằng, khi nghe tin tức, Krishnaji ngồi suốt ngày trong phòng khách của tôi nhìn ra vườn; anh nhìn ngắm những cái cây và những con chim, hầu như không nói một lời và chẳng ăn uống bao nhiêu. Lúc bốn giờ chiều anh cảm thấy sự hiện diện của Indira và đã đề nghị phải có sự yên lặng bên trong cái trí để bạn ấy có thể được an bình. Tôi có thể thấy rằng anh bị xúc động ghê lắm. Về khuya đêm kế tiếp anh sẽ nói, “Đừng giữ những kỷ niệm của Indira trong cái trí của bạn, việc đó níu kéo bạn ấy lại quả đất này. Hãy thả cho bạn ấy đi.” Bàn tay của anh thực hiện một cử chỉ hướng về không gian và vĩnh hằng.



[1] Tapas: những khổ hạnh nghiêm ngặt; cũng, sự sản sinh một năng lượng không bị hao tán.

[2] Sarvodaya: Sarva có nghĩa “tất cả”; udaya trỗi dậy. Vì vậy sarvodaya là sự thức dậy hay trỗi dậy của con người. Nó là một phong trào được khởi xướng bởi Gandhiji để xoá sạch sự nghèo khổ trong làng mạc Ấn độvì vậy dẫn đến một tái sinh của những con người Ấn độ.

[3] Smt, là từ viết tắt của srimati hay “người có triển vọng tốt.” Nó được sử dụng như một tiền tố vào tên của một phụ nữ đã lập gia đình.

[4] Lúc đó G. Parthasarthi là một người bạn của Indira Gandhi. Một người ngoại giao thâm niên, họ đã giữ những chức vụ rất quan trọng ở Nga và Mỹ. Năm 1986 ông là cố vấn cho Thủ tướng Rajiv Gandhi

[5] Red Fort là một đài kỷ niệm được xây dựng trong thế kỷ thứ 17 bởi Shah Jahan. Từ những bảo vệ của nó những thủ tướng của Ấn độ nói chuyện với quốc dân vào ngày lễ Độc lập, 15 tháng tám.

[6] Kamakoti Sankaracharya của Kancheepuram dòng dõi trực tiếp của những người thầy và những người giảng đạo tiếp nối có từ Adi Sankara, Sankaracharya đầu tiên, giảng đạo khoảng thế kỷ thứ tám sau CN. Kamakoti là tên của ngôi làng trong vùng Kancheepuram của Tamil Nadu, Nam Ấn, nơi trung tâm tôn giáo của ông được thành lập.

[7] George Fernandes, một người xã hội, là một trong những đối thủ hung hăng nhất của Indira Gandhi. Ông là một thành viên của Nghị viện nhiều năm và là một bộ trưởng trong chính phủ của Moraji Desai, sau khi Indira Gandhi và đảng Congress bị đánh bại năm 1977.

[8] Sau khi khủng hoảng chấm dứt, những người lãnh đạo đối nghịch tập họp cùng nhau để thành lập một đảng duy nhất có tên là Janata Party. Janata có nghĩa “dân tộc.” Janata Party được sinh ra bởi người lãnh đạo thuộc Gandhian được kính trọng nhất, Jai Prakash Narain; đảng mới đấu tranh trong những tuyển cử năm 1977 chống lại Indira và Congress Party. Janata Party chiến thắng và một chính phủ được thành lập bởi Morarji Desai, người lãnh đạo kỳ cựu của Gujarat. Hầu hết những thành viên của Janata Party đã là những thành viên trước của Congress Party, nhiều người trong số họ đã chiến đấu cho trong sự đấu tranh giành tự do chống lại người Anh, nhưng đã rời bỏ đảng.

[9] Một loại lụa không nhiều dâu; những con tằm của tussar được nuôi trên cây và được thâu gom bởi những người đàn ông và đàn bà bộ lạc và được bán tại những chợ của bộ lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14564)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14359)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13274)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12644)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25239)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27877)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26351)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17231)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15917)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22138)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17132)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24907)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21964)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19067)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16783)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14665)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16703)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18776)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14778)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14373)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16614)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12924)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14944)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14603)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28024)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27189)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20964)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24178)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28686)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14735)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13286)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16456)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27235)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16077)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21489)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12377)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant