Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Ngày Lễ hội truyền thống

02 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8886)
3. Ngày Lễ hội truyền thống

VU LAN VÀ TUỔI TRẺ
Thông Huệ
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2008

NGÀY LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Hàng năm, vào ngày rằm tháng bảy, các Phật tử đến chùa tụng nghi lễ Vu Lan, nghe quý thầy giảng về đạo Hiếu; đây là một điều rất đáng tán dương. Có thể nói, ngày Vu Lan đã trở thành một lễ hội truyền thống, là ngày đền ơn đáp nghĩa, không chỉ riêng cho những người con Phật, mà chung cho cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nhân mùa Vu Lan năm nay, chúng ta cũng cần nhắc lại những ý nghĩa sâu xa của lễ hội này, để hiểu rõ do đâu mà ngày rằm tháng bảy được gọi là ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân, ngày Tự tứ và là ngày Phật hoan hỷ.

VU LAN VÀ ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA 

Đức Khổng Tử đã nói: “Nhơn vi vạn vật tối linh” (Con người là tối linh trong muôn vật). Loài vật chỉ có thiên tính nuôi con, không có ý thức phải sống như thế nào cho phù hợp với đạo đức; còn con người có khối óc, có lý trí, nên ngoài bản năng, con người còn biết nhớ ơn và đền ơn. Chúng ta sinh ra và lớn lên, không ai có thể độc lập tồn tại được, mà phải nhờ cha mẹ và các ân tình khác trong cuộc sống. Đức Phật dạy, có bốn ơn lớn mà con người cần phải biết để báo đền: Ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn chúng sanh và ơn tổ quốc, gọi là Tứ trọng ân. 

Trong các hình thức văn hóa, chúng ta thường thấy ca ngợi tình mẹ hơn là tình cha. Không phải vì cha không thương con bằng mẹ, công lao nuôi dạy con không bằng mẹ, mà bởi vì tình cảm của người cha thường ít biểu lộ ra ngoài, nên con cảm thấy gần gũi mẹ hơn cha. Thật ra, đức nghiêm của cha và đức từ của mẹ kết hợp nhau, dung hòa lẫn nhau mới tạo nên sinh khí và sự bình ổn trong gia đình, mới là điều kiện cần và đủ cho sự giáo dục con cái. 

Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Công của cha cao vòi vọi như ngọn núi lớn, nghĩa của mẹ rạt rào bất tận như suối nguồn. Công và Nghĩa là hai phạm trù có thể diễn đạt được ý nghĩa của tình cha mẹ đối với con. Hiểu được điều này, chúng ta thấy cha và mẹ đều có địa vị cao cả ngang nhau trong lòng con cái. Vì vậy, mỗi người chúng ta đều phải tìm mọi cách báo đáp trọng ân này. Nhưng làm cách nào để báo đáp cho tròn chữ hiếu?.

Kinh Tăng Chi Bộ tập I, Phật dạy rằng: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng cung phụng cha mẹ bằng của cải vật chất, thì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳkheo! Ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác-trí-huệ, khuyến khích hướng dẫn an trú vào trí huệ. Cho đến như vậy, này các Tỳkheo! Là làm đủ và trả đủ ơn cha và mẹ”. Dựa vào lời Phật dạy, chúng ta đã biết báo hiếu đúng nghĩa phải như thế nào. Trước tiên, chúng ta phải lo cho cha mẹ đầy đủ về vật chất, tùy khả năng của mỗi người. Kế đến, chúng ta phải nghĩ đến đời sống tinh thầnđạo đức cho cha mẹ. Nếu người có tà kiến, phải giúp đỡ người có được chánh kiến; nếu người theo tà giới, phải khuyên người theo chánh giới; nếu người làm điều ác, phải khuyên người làm những hạnh lành; nếu người chưa có chánh tín, phải khuyến khích người trở về nương tựa nơi Tam-bảo, sống một cuộc đời hiền thiện.

Chúng ta đọc câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất là hai vị đệ tử lớn của Phật, thấy hai Ngài đều có mẹ vì tạo tội nên bị đọa vào khổ xứ. Sau khi được Phật chỉ dạy, các Ngài khẩn thiết xin với chư Tăng tu hành thanh tịnh, vào ngày rằm tháng bảy thành tâm chú nguyện cho mẹ mình. Tâm thành của chư vị Thánh Tăng chuyển được tâm ác của hai bà mẹ nên hai bà thoát kiếp đọa đày. Chuyện này cho thấy, hai vị tôn giảxuất gia tu hành đã được giải thoát, vẫn nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Không phải chỉ nhớ đến cha mẹ đời này, mà còn nghĩ tưởng đến cha mẹbà con quyến thuộcvô số kiếp về trước. Đức Phật đã từng lạy đống xương khô, nhân đó thuyết bài Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu, một áng văn tuyệt tác, làm rơi lệ biết bao nhiêu người từ thời ấy cho mãi đến ngàn sau. Cho nên, với tầm nhìn của người bình thường, những người xuất gia dường như là bất hiếu. Nhưng thật sự, cung phụng cha mẹ bằng món ngon vật lạ chỉ có giá trị giới hạn, vì thuộc về vật chất hữu hình hữu hoại. Còn người xuất gia tu hành đạt đạo, khuyến khích cha mẹ cùng tu hành để thoát khổ sinh tử luân hồi, đó mới là đại hiếu vì có giá trị vĩnh hằng, đó mới thực sự xứng đáng đền ơn cha mẹ.

 Kinh Tương Ưng tập I có nói: 

Người nào theo thường pháp,
Nuôi dưỡng mẹ và cha,

Chính do công hạnh này,

Đối với cha với mẹ,

Nhờ vậy bậc Hiền Thánh,

Trong đời này tán thán,

Sau khi chết được sanh,

Hưởng an lạc chư Thiên”.

Thường pháp là pháp không biến đổi theo thời giankhông gian, là chân lý muôn đời. Do lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, những người con ấy được các bậc Hiền Thánh tán thán; và sau khi chết được sanh về cõi trời, hưởng nhiều sự an lạc. Thật ra, một người con hiếu thảo sẽ tự cảm nhận trong thân tâm mình có sự tươi mát bình an. Đó là cảm thọ của chư Thiên ngay trong hiện kiếp. Ngược lại, những người bất hiếu với cha mẹ thì không xứng đáng với danh nghĩa là người. Đây là điều kiện để những tội ác khác phát sinh, vì đạo hiếu là căn bản của đạo đức con người. Nếu chúng ta không thương cha mẹ, thì chắc chắn không thể nào chúng tatình thương thật sự đối với ai. Cho nên, điểm đầu tiên của lòng từ bi phải là lòng hiếu thảo. Phật đã dạy, phụng thờ trời đất quỷ thần không bằng hiếu kính với cha mẹ, vì cha mẹthần linh bậc nhất, chính là Phật tại thế. Điều này cho thấy, địa vị của cha mẹ đối với con cái rất quan trọng. Nhất là trong xã hội hiện tại, đôi nơi đã đánh mất nền tảng đạo đức, chạy theo xa hoa phù phiếm, thì trong gia đình và học đường, mỗi đứa trẻ đều phải được dạy bảo để thấm nhuần về đạo hiếu.

Ơn lớn thứ hai cần phải báo đáp là ơn đối với sư trưởng. Đó là các thầy cô dạy chúng ta những kiến thức thế gian, từ lúc còn thơ chưa biết chữ đến khi thành người hữu dụng. Người tu còn có một ân nghĩa xuất thế, đó là Chư Phật Bồ tát và Thầy Tổ. Chính các Ngài có đầy đủ Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, giúp chúng ta có một cái nhìn siêu việt về cuộc sống, giúp chúng ta đẩy lui vô minh, tẩy trừ tập khí phiền não, để trở thành một người tự tại an lạc trong dòng đời. Cho nên, tinh thần tôn sư trọng đạo, từ bao giờ cho đến bây giờ, vẫn cần được nhắc nhở và đề cao.

Đối với ơn chúng sanh, ta cần phải quán chiếu mới thấu triệt. Thân chúng ta sinh ra và lớn lên là nhờ công ơn của rất nhiều người, từ người nông phu cho lúa gạo, người thợ dệt cho vải vóc, người thợ nề xây nhà cho ở... đến bạn bè, người láng giềng, những kẻ giúp việc... mỗi mỗi đều giúp đỡ ta trong những công việc hàng ngày. Nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ thấy có một sự liên hệ hỗ tương giữa mình và vũ trụ vạn hữu, đây là thuyết trùng trùng duyên khởi Phật đã dạy. Cho nên, không những nhớ ơn chúng sanh hữu tình, ta còn phải mang nặng công ơn của vạn vật vô tình nữa. Vào thời đức Phật, một vị Tỳ kheo ngồi nghĩ dưới gốc cây một lát rồi ra đi, cũng phải nhớ ơn cái cây đã tỏa bóng mát che nắng cho mình. Nói gì đến không khí chúng ta thở, nước chúng ta uống, ánh sáng mặt trời ban sức sống cho muôn loài... Tất cả là ơn chúng sanh mà mỗi người đều thọ nhận, dù khó thể đáp đền. Vì thế, nếu có dịp cứu giúp người hoạn nạn, khốn khổ hơn mình, nếu nơi nào bị thiên tai dịch họa, chúng ta cần đóng góp tài lực, vật lực, tùy theo khả năng. Đây là tinh thần lá lành đùm lá rách, mà cũng là để đền ơn chúng sanh. Trong nhiều kiếp luân hồi, biết đâu những người bị nạn ấy là thân nhân quyến thuộc của mình? Với cái nhìn duyên sinh, phóng tầm mắt đến đâu ta cũng thấy toàn là bà con thân quyến. Mà đã là thân nhân với nhau, chẳng lẽ chúng ta nỡ làm hại người, làm người phiền não, chẳng lẽ không cùng gánh vác chia xẻ những nỗi đau thương mất mát của người? Đây chính là tiền đề của lòng từ bi, ban vui và cứu khổ.

Ơn lớn thứ tư là ơn đối với tổ quốc. Nếu không có sự bảo hộ của nhà nước, của pháp luật; nếu không có binh phòng, vệ phòng ngày đêm giữ gìn an ninh trật tựđề phòng giặc ngoại xâm, liệu chúng tayên ổn sinh sống và tu hành được không? Những người Việt sống xa quê, do hoàn cảnh hay do sinh kế phải bôn ba nơi đất lạ, vẫn mang trong lòng nỗi nhớ quê hương. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc luôn luôn vang vọng trong mọi con tim người dân Việt, vì vậy bao nhiêu giặc ngoại xâm - kể cả những kẻ thù hùng mạnh và hung hãn nhất, cũng đành chịu thất bại trước sức quật cườngtinh thần yêu nước của dân tộc Việt-Nam.
 
Làm người là một hạnh phúc vô cùng to lớn, nên chúng ta phải biết trân quý từng giây phút, để sống thế nào cho có đạo lý, phù hợp với tình cảm giữa người và người. Việc báo ân báo hiếu là điều cần thiết phải làm để đem lại hạnh phúc cho gia đình, tạo nền móng đạo đức căn bản, tạo sự an bình cho xã hội. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng của tất cả mọi người, không phải dành riêng cho những người con Phật. Bởi vì, dù ở địa vị nào, sống trong quốc độ nào, theo tôn giáo nào, tinh thần đền ơn đáp nghĩa vẫn có giá trị muôn đời. Vì thế, có thể nhắc lại mà không sợ lầm, Vu Lan là một ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Việt-Nam. 

VU LAN VÀ TỰ TỨ

Một số Phật tử tụng kinh hằng đêm, chắc nhớ hai câu này: 

Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.
(Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ).

Những chúng sanh tạo nghiệp nặng nơi thân khẩu ý, lúc chết phải đọa vào ba đường ácđịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhà Phật nêu lên hình ảnh của một người bị treo ngược chân lên trời, đầu chúc xuống đất, để tượng trưng cho những nỗi khổ cùng cực. Cái khổ cùng cực này không chỉ người bị đọa tam đồ mới chịu, mà ngay người đang sống, đôi lúc cũng lâm vào những cảnh quẩn bách khiến thân tâm có thể cảm nhận rõ điều này.

Tinh thần từ bi của đạo Phật ban rải khắp muôn loài. Cho nên, ngày Vu Lan còn có ý nghĩa là ngày xá tội vong nhân. Chúng ta đừng hiểu lầm Vu Lan Bồn là cái chậu đựng trăm món ngon, chờ đến ngày rằm tháng bảy đem đến chùa nhờ chư Tăng cầu nguyện cho thân nhân còn sống hay đã chết. Chữ Vu Lan Bồn có nghĩa là Giải đảo huyền hoặc Cứu đảo huyền, tức giải cứu khỏi cái khổ treo ngược.

Trong vòng luân hồi sanh tử, chúng ta đã bao lần là bà con quyến thuộc với nhau. Vì vậy, sự liên hệ do duyên nợ giữa chúng ta và tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới là một điều có thể hiểu được. Từ đó, tình thương của chúng ta sẽ chan hòa một cách bình đẳng đến muôn loài muôn vật, không hạn cuộc thời giankhông gian. Và ý nghĩa trọng đại của lễ Vu Lan chính là lòng biết ơnđền ơn tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Tình thương của chúng ta đối với mọi loài có tính cách xả kỷ, rộng lớn và bình đẳng chứ không còn là tình cảm luyến ái hệ lụy trong gia đình. Nếu hiểu được chân nghĩa này, từ trong vô thường huyễn mộng của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm được một hướng đi và lẽ sống tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Chính ngày Vu Lan giúp chúng ta hướng tâm mình đến chân trời bao la đó. 

Nhưng làm cách nào để có thể cứu giúp chúng sinh đang bị đọa đày nơi khổ xứ ?

Đức Phật dạy, ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ. Trong ngày ấy, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, vì thấy chư Tăng tu hành thanh tịnh, hòa hợp. Nhờ đức hạnh, đạo lực của chư Tăng mới có thể hướng tâm người quá vãng đến nẻo thiện, chuyển được nghiệp ác cho họ. Như vậy, gốc của lễ Vu Lan là ngày Tự tứ.

Từ thời đức Phật còn tại thế, mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, chư Tăng phải thực hiện chế độ an cư, nghĩa là yên ở nơi một trú xứ thu nhiếp các căn, nỗ lực tu tập Giới - Định - Huệ. Nguyên nhân đầu tiên để Phật đặt ra chế độ này, là vì trong ba tháng hạ, ở Ấn Độ mưa nhiều, nước ngập cả lối đi, sau đó côn trùng sinh sôi nảy nở, nên trở ngại cho việc đi lại hoằng pháp và vô tình giẫm chết côn trùng. Sau ba tháng cấm túc, Phật nhận thấy nhiều vị Tỳkheo đắc Thánh quả, nhờ ít bận rộn đi lại, tránh bớt các duyên và quyết liệt tu hành. Do kết quả đó nên sau này, chế độ an cư trong ba tháng hạ được duy trì mãi trong Tăng chúng.

An cư phải đi đôi với kiết giới. Sinh hoạt của chư Tăng trong thời gian này khác hơn so với ngày thường. Những ngày bình thường, do duyên sự bề bộn, các vị có thể du phương làm Phật sự, kỷ luật trong Tăng-đoàn có khi lơi lỏng. Nhưng trong ba tháng hạ, mọi việc đều thu xếp gọn lại, chư Tăng chỉ đi lại giới hạn trong khuôn viên của tự viện; chỉ có những vị có duyên sự đặc biệt, phải xin phóng giới mới được ra ngoài. Mới nhìn, chư Tăng có vẻ rảnh rỗi, không bận tâm về sinh kế vì nhờ Phật tử hỗ trợ cúng dường; nhưng thật ra nội tâm của các vị quả là một trường chiến đấu! Một mặt, phải khép mình vào một kỷ luật hết sức nghiêm khắc; mặt khác, phải chiến đấu không ngơi nghỉ với bao nhiêu tập khí phiền não. Nhờ vậy, sau thời gian kiết hạ, nếu vị nào giữ giới tinh nghiêm, nỗ lực tu học, có sức tỉnh lực thì sẽ có tiến bộ đáng kể; nơi nào tổ chức tu hành nghiêm túc sẽ có thể sản sinh những người xuất cách, còn nếu tổ chức lơi lỏng sẽ khó đào tạo được Tăng tài.

Cũng cần nhấn mạnh một điều: Tinh thần an cưthanh tịnhhòa hợp. Đây cũng là ý nghĩa của chữ Tăng và cũng là sức mạnh của Tăng đoàn. Một nhóm người chung sống hòa hợp với nhau nhưng tâm không thanh tịnh, sinh hoạt và hành động không theo chánh pháp thì không phải là người tu chân chính. Ngược lại, dù sống thanh tịnh, giữ giới đúng mức nhưng lại bất hòa với nhau, thì sức thanh tịnh cũng vẫn còn hạn chế, chưa đúng với danh nghĩa người tu.

Trong nhà Thiền, tinh thần an cư còn có một ý nghĩa về Lý. Dù ở nơi nào, dù vắng vẻ hay ồn náo, nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trầntâm không duyên theo các pháp, đó mới thật sự là “độc xử nhàn cư”. Như vậy, hàng cư sĩ tại gia, nếu sắp xếp được công việc, tránh bớt các duyên, hàng năm có thể tổ chức cho mình một thời gian nhất định nào đó để tĩnh tu. Do chúng ta căn cơ và trình độï tu hành còn kém, nên cần có độc cư về sự để trợ duyên cho việc tu tập.

Cuối cùng của chế độ an cư, và cũng là cốt tủy của lễ Vu Lan, là ngày Tự Tứ vào rằm tháng bảy. Tự là chính mình, Tứ là đưa ra trước mọi người. Nội dung của Tự Tứ là mỗi người tự trình bày những lỗi lầm mình đã phạm, không giấu giếm, gọi là phát lồ sám hối; đồng thời kính thỉnh đại chúng, nếu thấy, nếu nghe, nếu nghi mình có mắc phải lỗi nào mà chính mình không biết, xin từ bihoan hỷ nêu ra để mình sửa đổi. Đối với người thế gian, điều này thật khó thực hiện; nhưng đối với người tu thì đây là điều cần thiết. Người cử lỗi phải hoan hỷ, thật tâm muốn huynh đệ của mình tốt đẹp; người được cử lỗi cũng phải lấy làm sung sướng, vì có đại chúng chỉ dạy, ban bảo cho mình. Người xuất gia, nhất là mới vào đạo, phải được ở gần Thầy và đại chúng, để được chỉ bảo cho mình những điều mà tự mình không hay biết.

Do tất cả Tăng chúng đều an trú trong sự thật, can đảm tự cử lỗi của mình và chỉ lỗi cho người, nên ngày Tự Tứ là ngày chư Phật mười phương đều hoan hỷ. Do tâm các vị thanh tịnh như thế, Phật tử mới quy hướng về nơi kiết hạ, chờ ngày Tự Tứ nhờ chư Tăêng cầu siêu cho thân nhân đã khuất được sanh về các cõi lành, cầu cho người sống được thân tâm an lạc, vững chải sống trong chánh pháp. Nhờ phước lực của chư Tăng trong ba tháng thanh tịnh tu hành, nên thức tỉnh được tâm người đã khuất và làm người sống cảm thấy bình an. Cho nên, ngày rằm tháng bảy là ngày hết sức quan trọng trong ba tháng an cư. Bản chất của ngày này là An cưTự Tứ, từ đó mới có cái ngọn là Vu Lan và Báo Hiếu hay đền ơn đáp nghĩa.
 

Vu Lan chính là ngày hội tụ những niềm vui lớn trong tâm hồn những người con hiếu hạnh, những người có đạo đức, biết trở về nguồn cội. Nếu quán triệt được và sống được đúng tinh thần của Vu Lan, thì chính con người của chúng ta cũng là hiện thân của “Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát”. Chúng ta không tìm một vị Mục Kiền Liên nào trong thời quá khứ, mà phải tìm Mục Kiền Liên ngay trong con người xác thịt của chúng ta.

Nhân mùa Vu Lan năm nay, đảnh lễ trước Phật đài, chúng ta thề nguyền noi gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên, làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Chúng ta cũng nhớ đến tất cả chúng sinh đang còn chìm đắm trong vô minh tăm tối, nguyện hồi hướng công đức cho muôn loài đều phát Bồ đề tâm, đồng tu hành và đồng thành chánh giác. Từ chỗ đứng vững chắc của mình bằng hạnh hiếu và bằng tất cả lòng thành, chúng ta đã có vật phẩm dâng lên cúng dường Tam bảo một cách có ý nghĩa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19894)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20957)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19326)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40577)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21295)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41118)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24146)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23083)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17876)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27010)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20773)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33665)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21064)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28983)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12715)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25365)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19166)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17537)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25836)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19035)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19015)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29067)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18935)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33376)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31286)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18261)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24541)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19466)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17931)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23111)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18044)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32255)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17403)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16101)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18582)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20795)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18100)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20138)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14920)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20952)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15079)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15791)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12953)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14526)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14938)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29449)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14546)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant