Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Truyền thừa

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10252)
12. Truyền thừa

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

TRUYỀN THỪA 

Phật dạy 4 ân và cách báo 4 ân. Cách báo ân toàn triệt nhất trong các cách là làm sao tu cho được CHÂN THẬT BA-LA MẬT. Tu Chân thật ba-la-mật hay Quán tâm địa là một cách nói khác chỉ cho việc sống trở lại với tâm chân thật của mình, kinh Niết Bàn gọi tâm đó là PHẬT TÁNH, luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là CHÂN NHƯ, kinh Pháp Hoa gọi nó là TRI KIẾN PHẬT. Tất cả mọi pháp môn từ niệm Phật, trì chú, tham công án … mà chư Phật Tổ đã dạy, đều cốt cho người tu nhận lại tâm này. Chỉ do căn khí của người cạn hay sâu mà chư vị phương tiện chỉ thẳng hay gián tiếp.

Sống trở lại với tâm đó, cũng là sống lại được với TRÍ TUỆTÂM TỪ của chính mình. TRÍ TUỆ nói đây là trí tuệ thấy các pháp đúng như chính nó, nhận ra được qui luật đang chi phối thế giới này. Người xưa nói “Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống”. Biết, là biết được qui luật đang chi phối thế gian, theo đó mà sống, thì mọi thứ hài hòa yên ổn

Như chết, là lẽ tất nhiên mà ai cũng phải qua, chỉ là sớm hay muộn. Song nếu mình chấp nhận nó như một việc hiển nhiên, thì cái chết không làm mình khổ. Nhưng nếu mình không chấp nhận, cứ chạy vạy níu kéo, níu kéo một thứ không thể níu kéo, thì khổ vô vàn. Một chuyện hiển nhiên trước mắt còn khiến mình khổ như vậy, huống là những chuyện mình chưa thấu được. Vì thế, nắm được qui luật sống ở đời, là cửa giúp mình và người hết khổ.

Thấy người đói, cho ăn. Thấy người thiếu, giúp đỡ v.v.. những việc làm đó rất tốt, nhưng giúp ngặt chứ không ai giúp nghèo. Không thể cho họ suốt đời. Vì không khéo việc này sẽ sinh tiêu cực mà cũng không thể kéo lâu dài hay rộng rãi. Vì thế, cho tiền của, không bằng giúp cho họ có một công việc để tự lo sống. Tương tự, một khi mình hiểu được lý thật của cuộc đời, đủ năng lực để tự đi và chỉ cho người khỏi sụp hầm sụp hố thì việc đó phải lợi ích hơn là chỉ biết làm phước trao tặng. Mình trao tặng cho người mà người không đủ phước để hưởng thì có khi tai họa cũng liền kề. Nói vậy không phải là xúi mình đừng trao tặng. Nó là phương tiện cần thiết cho việc tặng pháp về sau. Nhưng thực tình, nếu phước không đủ, mình có cho cũng không tới tay, có tới tay cũng bệnh hoạn nạn tai cho tiêu sạch. Thành khi mang tiền giúp đỡ, một số vị hay khuyên người khác niệm Phật, hoặc khuyên người trích tiền mình đã cho ra cúng dường hay bố thí lại ít nhiều, hoặc khuyên người sống thiện, để giữ cái phước về sau. Đó là chỉ cho người con đường để người tự đi. Họ có phước rồi, không có mình họ cũng gặp được người giúp đỡ hay tự làm ăn phát đạt. 

Ngoài ra, trí tuệ Phật có hiển phát thì tình thương rộng lớn mới hiển bày. Phải có tình thương đối với muôn người, mới khiến mình không bo bo cái gì cũng chỉ hạn cuộc trong mình và gia đình mình. Tình thương này sẽ giúp mình tránh được những cái nhỏ nhặt không đáng trong cuộc sống. Cũng là thứ khiến mình mở lòng rộng rãi với mọi người, dù đó là người mình không ưa. Nó là cái nhân để mình có an vui trong hiện đời và mai sau. Chính vì thế, Phật nói tu Chân thật ba-la-mật mới trả hết các ân mình đã mang trong đời

Đó là nói trên mặt hiện tại, nói về lâu dài, hiện nay mình còn có kinh, luật, luận, ngữ lục của các Tổ để đọc, học … là nhờ sự nối tiếp truyền thừa của các bậc đi trước. Đây là phần rất quan trọng đối với người tu. Vì thế, với người TU PHƯỚC cầu quả báo Nhân Thiên, bố thí phápcông đức nhiều hơn bố thí phẩm vật là vậy. Với người TU PHẬT, đang thực hành hạnh nguyện Bồ tát, việc truyền bá lưu thông càng quan trọng. Thành cuối kinh, khi nào Phật cũng căn dặn đệ tử phải lưu thông truyền bá các kinh, như kinh đây nói “Khiến kinh này được lưu truyền rộng rãi …”. Lưu truyền, là truyền tay nhau kinh này không phải trong hiện đời mà cả về sau. Đó là việc lưu truyền dễ làm và đơn giản nhất. 

Để việc truyền thừa được rộng rãi hơn nữa, cần có vốn ngôn ngữ tối thiểu để dịch thuật kinh - luật - luận của Phật Tổ. Như kinh này vốn bằng tiếng Phạn, ngài Bát Nhã đời Đường dịch ra Hán văn, giờ mới có bản chữ Hán để mình dịch ra tiếng Việt mà cùng nhau chia xẻ cái hay của nó. Với loại kinh Nhân quả, tức những kinh không đòi hỏi phần tâm chứng, thì chỉ cần vốn ngôn ngữ là đủ, nhưng với những bộ kinh như Lăng Nghiêm, Lăng Già, luận Trung quán v.v… chỉ có vốn ngôn ngữ không thì chưa đủ. Thành học rồi còn phải tu. Tu rồi còn phải chứng nhập tự tâm. Tâm có được thanh lọc thì trí tuệ mới phát, mới khế hợp được những điều kinh nói, mới biết dụng pháp đúng duyên. Cần giảng pháp thì giảng pháp, cần xây chùa thì xây chùa, cần chú thuật thì dùng chú thuật v.v… Tùy duyên dụng pháp mà không mất mình, không khiến người và mình bị đọa lạc trong mê tín hay hình tướng. Đó là góp phần khiến ngọn đèn của Phật Tổ được sáng mãi. Không thì có khi phát tâm rất mạnh, nhưng việc làm của mình trở thành nửa mùa ...

Luận Đại Thừa Khởi Tín, được Tổ Hoa Nghiêm là ngài Hiền Thủ luận giải rất kỹ. Đại sư Hám Sơn thì nói “Yếu chỉ nhập pháp giới của tông Hoa Nghiêm lấy luận này làm cửa nhập pháp giới”. Nó là bộ luận rất quan trọng đối với người tu Đại thừa. Nó giúp người tu phát khởi niềm tin đối với Đại thừa, mở ra con đường Bồ tát, giúp người tu trở lại với bản tâm thanh tịnh của mình. Nhưng có người lại cho nó là tà ma ngoại đạo. Không phải vì họ rắp tâm muốn phá hoại Phật pháp, mà vì việc tu hành chưa đạt được chỗ cần đạt, chưa thực chứng được cảnh giới mà luận nói, nên không nhận được phần lý lẽ thâm sâu BẤT BIẾNTÙY DUYÊN luận đã nêu. Chẳng qua vì lực dụng chưa đủ, nên thay vì hộ pháp, lại trở thành kẻ phá pháp

Cho nên, với người tu, CÔNG PHU TU HÀNH là quan trọng. Nó là thứ khiến mình phát trí tuệ, giúp mình nhận định được cái gì đúng, cái gì sai, cái gì tà, cái gì chánh để mà truyền thừa. Không có trí tuệ, Thầy Tổ nói một đường, mình diễn lại một nẻo. Thứ kẻ gian truyền thừa, mình cũng cho là Thầy Tổ mình nói. Cái đúng của người đi trước mình vô không được. Cái sai của người đi trước mình cứ đó mà theo. Thiếu trí tuệ nên mình không đủ năng lực nhận định vấn đề cho rõ ràng ... khiến nhiều việc đáng tiếc xảy ra. 

Bộ kinh này Phật giảng cho chư vị trưởng giả. Nhưng thật là cho tất cả mọi người. “Giàu sang mà chịu học đạo là khó” nhưng Phật vẫn giảng giáo Nhất thừa cho chư vị nghe, thì biết căn lành của chư vị rất lớn. Có điều vì hiện đời quá sung túc thành chư vị quên mất nguồn căn của mình. Không phải lúc Phật còn tại thế mới có những vị trưởng giả như vậy. Hiện đời đây cũng vẫn có. Không phải chỉ hiếu hạnh hết mực, cúng dường Tam bảo rất nhiều, cứu giúp người nghèo vô số mà chư vị còn nghiên cứu kinh sách, nghiên cứu không phải cho riêng mình mà còn giúp người khác nghiên cứu, rồi tự tâm dừng đi tham sân si của chính mình. Có người còn bỏ tất cả để tu hành. Chư vị không những chỉ đến chùa học đạo mà còn biết sống đạo, là cái nhân để Phật pháp được truyền thừa rộng rãi và dài lâu. Thành đừng nghĩ phải đứng ở cương vị giảng sư mình mới là kẻ nối tiếp truyền thừa của Phật Tổ. Đừng nghĩ phải 5 năm 10 năm nữa, mình mới thành kẻ truyền thừa. Cũng đừng nghĩ kẻ truyền thừa chỉ nằm trong một vài vị có chức sắc. Tất cả Phật tử, dù tại gia hay xuất gia, đều là kẻ truyền thừa của Phật Tổ, nếu hiện tại mình sống tỉnh giác, không để tham sân si làm chủ, luôn vì lợi ích của muôn người. Cứ một NIỆM được như thế là một niệm mình đang truyền thừa ngọn đèn của Thầy Tổ. NIỆM NIỆM như thế là niệm niệm đang truyền thừa. Không có sự truyền thừa nào hơn sự truyền thừa đó. Thực hiện như vậy là mình đang tu pháp CHÂN THẬT BA-LA-MẬT mà Phật nói đây. Đó là cách báo ân cha mẹ và Thầy Tổ cũng như tất cả mọi người được trọn vẹn nhất, cũng là góp tay khiến Phật pháp được lưu truyền rộng rãi và dài lâu.

Tp. HCM ngày 31.3.2007 
Chân Hiền Tâm
 

01 Với loại BẤT ÐỊNH NGHIỆP thì vẫn thay đổi được bằng duyên phúc đứcviệc thiện của chính mình.
02 Những câu trong ngoặc kép đều là phần trích dịch.
03 Dịch từ phẩm Báo Ân, kinh Ðại Thừa Bản Sanh Tâm Ðịa Quán. Ðại Chánh Tạng tập 3.
04 Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương 12. 
05 Chỉ thời gian và pháp tu của hàng Thanh văn. Thời gian thì có giới hạn, nhanh nhất là ba đời, chậm nhất là trăm kiếp. Pháp tu thì chỉ có thiền quán, không phải dâng hiến thứ gì cho ai. 
06 Tu di là vua của các ngọn núi, lớn nhất và toàn bằng châu báu.
07 Căn : Mắt, tai, thân v.v… 
08 Căng-già là sông Hằng, một trong ba con sông lớn ở Ấn độ.
09 5 cõi : Trời, người, súc sanh (thú vật), ngạ quỉ, địa ngục
10 Trong Thám Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký, Tổ Hiền Thủ nói “Theo luận Ðại Trí Ðộ, Nhị thiền gọi chung là Quang Âm”. 
11 Trích Ðất Việt.
12 Phần tiếp nói về cảnh giới tu hành của hàng Bồ tát Thập địa, và cảnh giới Tứ trí : Ðại viên cảnh trí v.v… Ðây không trích ra.
13 Cây bồ-đề được nói trong kinh Hoa Nghiêm
14 Mỗi loại ba-la-mật đều có 10 loại. Ðây lược bớt để dễ nhận ý chính.
15 Ðây là nói đến thân dư báo của Phật, là thị hiện của Phật pháp thân, như Phật bị quả báo mã mạch v.v…
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19894)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20957)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19327)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40579)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21301)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41120)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24146)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23084)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17876)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27010)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20773)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33669)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21065)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28985)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12716)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25367)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19166)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17539)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25838)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19039)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19017)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29069)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18936)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31288)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18261)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24541)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19466)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17933)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23111)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18044)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32261)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17405)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17444)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16103)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18584)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20796)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18100)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20139)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14921)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20954)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15079)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15793)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12954)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14526)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14939)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29457)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14547)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant