Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Tiểu Dẫn

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12252)
1. Tiểu Dẫn

KHUYÊN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM VĂN
Đại Sư Thật Hiền soạn
Việt dịch: Thích Trí Quang

TIỂU DẪN

Trong tam tạng, Bồ đề tâm được nói đến một cách trang trọng, không hơn thì bằng mà thôi, chứ không kém một pháp nào. Đặc biệt là nói chuyên về Bồ đề tâm thì kinh đã có, luận đã có, mà sách cũng có. Trong những đại bộ kinh luận, Bồ đề tâm lại được nói đến bằng phẩm hay phần. Riêng việc khuyến phát Bồ đề tâm, 1 tác phẩm từ đời Đường (số 1862 tập 45 của Đại tạng và số 883 tập 98 của Tục tạng) đã dành cho việc này. Tướng quốc Bùi Hưu của đời ấy cũng có một bài văn như vậy (số 1001 tập 103 của Tục tạng). Bài văn được dịch sau đây chỉ là hậu sinh mà thôi.

Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng, phát hiện bản thể của tuệ giác ấy là chân như. Giai đoạn trước hết, chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề hàm có 2 tính chấtthành ngữ thường nói là “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”. Như vậy, đối với người học Phật, phát Bồ đề tâm không những là bước đầu mà còn là căn bản, không những là căn bản mà còn là cứu cánh. Do đó mà Bồ đề tâm thành căn bản của Bồ tát giới, và trong Mật giáo còn có sự thọ Bồ đề tâm giới, với một nghi thức dành cho việc này (số 915 tập 18 của Đại tạng).

Về lý do phát Bồ đề tâm, ngoài nỗi thống khổ sinh tử mà mình mục kíchý thức, có 2 việc mà kinh luận đề cập nhiều nhất, đó là tự biết mình có thể làm Phật và, tha thiết hơn cả, nghĩ đến sự suy tàn của Phật pháp.

Trong 2 buổi công phu, buổi sáng, sự phát Bồ đề tâm được thể hiện trong đoạn văn chính sau đây, ngoài văn phát nguyện hồi hướng:

Nguyện kim đắc quả thành Bảo vương,
Hoàn độ như thị hằng sa chúng
Tương thử thân tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh:
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ nê hoàn.
Đại hùng đại lực đại từ bi,
Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Linh ngã tảo đăng vô thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng.
Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
Thước ca la tâm vô động chuyển.

Buổi chiều cũng vậy, sự phát Bồ đề tâm được thể hiện trong 2 đoạn văn chính sau đây, ngoài văn phát nguyện hồi hướng:

Ngã kim phát tâm, bất vị tự cầu Thanh Văn Duyên Giác, nãi chí quyền thừa chư vị Bồ tát; duy y tối thượng thừa, phát Bồ đề tâm: nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh Phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tánh Pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.

Bài văn khuyến phát Bồ đề tâm được dịch sau đây, nói nhiều hơn về giai đoạn trước hết của sự phát Bồ đề tâm. Bài này nằm trong Tục tạng tập 109, trang 296b – 299a. Tục tạng tập 135 cũng có, trang 156b – 158b. Được Ngài Đế Nhàn giảng nghĩa, nên bài này cả nguyên văn lẫn giảng nghĩa nằm trong Đế Nhàn đại sư di tập, tập 7, trang 425 – 474. Bản giảng nghĩa này đã ấn hành riêng trước đó, in lần thứ 3 vào năm 1933. Hồi còn nhỏ bài văn này nằm trong chương trình năm thứ 5 lớp sơ đẳng Phật học của tôi. Theo tôi biết, bài văn này cũng đã được dịch ra tiếng Việt từ trước thế chiến 2, và tuồng như có ít nhất là 2 bản, tiếc rằng tôi không còn bản nào trong lúc dịch lại.

Để phụ thêm cho rõ về từ ngữ Phát Bồ đề tâm trong phương diện văn học, tôi phỏng thuật theo Ngài Thái Hư (Thái Hư đại sư toàn thư, tập 9, trang 755 – 766) thành bài phụ lục 1. Bài này tôi động đến 4 lần: năm 1946 tôi dịch tại Phúc Chỉnh (Ninh Bình) năm 1947 tôi dịch lại cạnh mẹ tôi trong chiến khu Quảng Bình, năm 1950 lược thuật đăng trong Viên Âm (sau lục in trong Tâm ảnh lục) và bây giờ viết phỏng lại đây.

Phụ lục 2 là tiểu truyện tác giả bài văn Khuyến phát Bồ đề tâm, lược dịch theo nguyên văn trong Tục tạng tập 109, trang 321, mặt a và b. Bản giảng nghĩa ấn hành riêng nói trên cũng có trích lục tiểu truyện này (trang 44 – 46).

Tuy nhiên, trường hợp tác giảtác phẩm Khuyến phát Bồ đề tâm còn nên nói thêm.

Tác giả của tác phẩm Khuyến phát tâm Bồ đề là Ngài Thật Hiền. Tác phẩm của Ngài Thật Hiền, tuy tiểu truyện đã liệt kê như trong phụ lục 2, nhưng tôi mới dò được trong Đại tạng (bản Đại chính tân tu) và Tục tạng (bản chữ Vạn) thì chỉ Tục tạng có:

1. Chú Tây phương phát nguyện văn, số 1146 của Tục tạng tập 108.

2. Đông Hải nhược giải, số 1163 của Tục tạng tập 109.

3. Tỉnh Am pháp sư ngữ lục, số 1164 của Tục tạng tập 109.

Riêng tập Tỉnh Am pháp sư ngữ lục, 52 năm sau khi Ngài Thật Hiền tịch (1786), Bành Tế Thanh thu thập ấn hành. Nội dung gồm nhiều văn phẩm của Ngài, tựu trung có:

a) Truyện vãng sanh của 2 Thượng nhân Mai Phương và Thánh Nhãn mà có lẽ tiểu truyện đã nói là Tục vãng sanh truyện. 2 truyện này, Tịnh độ hiền thánh lục cuốn 6 (Tục tạng tập 135, trang 156, a và b) trích lục ngay trước truyện của Ngài.

b) Khuyến tu Tịnh độ thi mà có lẽ tiểu truyện nói là Tịnh độ thi 108 bài.

c) Niết bàn hội phát nguyện văn,

Xá lợi sám tự,
Trùng kiến Niết bàn sám hội tự,
Niết bàn hội ước tự,
Niết bàn hội ước đệ nhị tự,
Niệm Phật qui ước,
Tịnh nghiệp đường qui ước.

d) Bài văn khuyến phát Bồ đề tâm được để đầu tiên.

Tất cả 7 bài nơi mục c) không những liên hệ đến bài văn Khuyến phát tâm Bồ đề tâm, mà còn có những chi tiết quan trọng bổ túc cho tiểu truyện của Ngài. Con người, chí nguyệnviệc làm của Ngài cũng bộc lộ qua chính 7 bài này.

Tuy nhiên, có một sự thiếu sót mà tôi nỗ lực tìm kiếm vẫn chưa ra, đó là 2 bản văn Xá Lợi sám và Niết bàn sám. 2 bản này có thật, 7 tài liệu trên chứng minh như vậy. Mà quan trọng là qua 7 tài liệu trên, cho thấy tác phẩm Khuyến phát Bồ đề tâm văn chỉ là bài văn viết trong sám hội của 2 sám văn ấy. Sau đây là sự việc lược thuật theo 7 tài liệu nói trên.

Tuy học rộng và chắc, Ngài Thật Hiềncon người nồng hậu, tình cảm, nặng về hành trì – một loại hành trì cũng theo bản chất tình cảm ấy. Mới xuất gia, Ngài liền hỏi các vị Trưởng lão về ngày Phật Niết bàn, ngày kỵ của Phật. Rồi mùa xuân năm Kỷ Hợi (1719), vượt đại giang, đến triều bái Xá lợi của Phật tôn thờ trong tháp đựng ở núi và chùa A Dục, tại đất và núi Tứ Minh. Tháp này là một nơi còn lại trong 19 nơi thờ Xá lợi của Phật tại Trung Hoa, được dựng vào năm 280, bởi Lợi Tân Bồ tát. Triều bái rồi, Ngài an cư tại đó. An cư xong, đốt một ngón tay cúng Phật. Mùa xuân năm sau, ngày Phật Niết bàn (tục lệ là rằm tháng hai), Ngài lại đến Tứ Minh, mở Niết bàn hội với chủ ý cúng kỵ Phật (từ ngữ của chính Ngài viết, Tục tạng tập 109, trang 305b). Hôm sau bái sám với 2 nghi thức Xá lợi sám và Niết bàn sám mà Ngài tự soạn thuật. Ngày thứ 7 hoàn tất, niệm Phật hồi hướng. Nguyện ước mỗi năm đều làm như vậy cho đến hết đời. Nhưng thật ra chỉ được 10 năm (Kỷ Hợi 1719 – Kỷ Dậu 1729). Sau đó, để mọi người khỏi quá mệt vì đi xa, quá tốn vì đường dài, Ngài tổ chức kỷ niệm ngày Phật Niết bàn bằng 10 ngày bái sám tại giới đàn Bồ tát của chùa Tiên Lâm, cũng bằng 2 sám văn trên. Việc đốt năm ngón tay cúng Phật chắc tuần tự thực hiện trong 10 năm triều bái Xá lợi tại tháp của núi và chùa A Dục.

Tuy không biết đích năm nào, nhưng bài văn khuyến phát Bồ đề tâm chắc chắn được viết theo nhu cầu của Niết bàn hội tại núi A Dục. Đại chúng đối tượng của bài văn này chính thị là những người cùng bái sám với Ngài tại đây. Trong văn nói phát 48 lời nguyện, 48 lời nguyện ấy nguyên văn còn đầy đủ, mang tên Niết bàn hội phát nguyện văn, 1 trong 7 tài liệu nói trên. Lại nói soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, thì sám pháp ấy chính thị là Xá lợi sám và Niết bàn sám, còn pháp hộiNiết bàn hội. Những lời này thấy ở đoạn giải thích lý do thứ 10 của sự phát Bồ đề tâm.

Triều bái Xá lợi của Phật với sự tưởng nhớ ơn Phật và nghĩ cách làm cho Phật pháp tồn tại, với sự phát Bồ đề tâm, lập 48 đại nguyện, bài sám bằng 2 nghi thức, đốt 5 ngón tay cúng dường, niệm Phậthồi hướng về Tịnh độ, làm như vậy suốt trong 10 mùa an cư dưới chân tháp tôn trí Xá lợi của Phật: đó là ý thức cùng nhau cúng kỵ Phật của Ngài Thật Hiền. Ngoài việc này, sau 10 năm nói trên, Ngài cùng mọi người chuyên tu Tịnh độ với 2 qui ước: 1 cho mỗi kỳ hạn 3 tuần và 1 cho mỗi kỳ hạn 3 năm. Với qui ước này, Ngài bảo ta đi là trở lại liền, và thành người khách đưa đường giữa Ta bàTịnh độ.

Về bài văn Khuyến phát Bồ đề tâm, và tác giả của nó là Ngài Thật Hiền, Bành Tế Thanh đã viết, đọc bài văn ấy không lúc nào tôi khỏi đổ mồ hôi, khỏi rơi nước mắt... Đại sư nhân chiêm bái Xá lợiphát tâm rộng lớn, ngôn từ phát ra như phơi trải gan ruột... Thật là ngọn cờ tinh tiến cho thời đại mạt pháp (Tục tạng tập 109, trang 295a). Lời này cũng đã đủ để giới thiệu.

Phần tôi, một hôm ngẫu nhiên gặp Thượng tọa Thiện Siêu và Đại đức Đổng Minh đang chung nhau bàn về bài văn này. Tối đó tôi mộng thấy thầy Trí Độ tôi bảo dịch. Đêm sau mộng nữa, thấy 2 hàng Tăng chúng đang đọc bài văn này. Do đó tôi quyết định dịch.

Vu Lan 2515

Trí Quang

(Nguồn: Tâm ảnh lục, tập 2, tr. 222 - 224)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19886)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20951)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19319)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40573)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21292)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41112)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24145)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23081)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17875)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27002)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20769)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33662)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21058)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28956)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12713)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25335)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19165)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17531)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25809)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19035)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19014)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18930)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38434)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31280)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18258)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24539)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19465)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17926)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23088)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18044)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32234)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17400)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16095)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18579)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20791)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18092)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20135)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14916)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20941)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15077)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15782)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12949)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14522)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14935)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29441)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14542)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant