Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Khi Tịnh Tài sinh Bất Tịnh

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6657)
4. Khi Tịnh Tài sinh Bất Tịnh

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG
Trần Kiêm Đoàn

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG 4

Ngày 6 - 8 - 2011
Khi Tịnh Tài sinh Bất Tịnh

Sáng nay, được anh chị Phương và anh chị Xuân đưa về thăm thành phố New Orleans, tôi được nhìn lại thành phố gần tròn 6 năm sau ngày trận bão lụt Katrina tàn phá khủng khiếp với gần 1,500 người thiệt mạng. Đây là Thành phố có độ thấp dưới mặt nước biển từ một đến ba mét (1 mét = 3.28 feet) nên đi giữa lòng phố xá mà vẫn có cảm giác “ớn lạnh” như đang đi giữa lòng biển khơi. Tháng 8 năm 2005, nơi đây là biển nước mà tháng 8 hôm nay, chúng tôi đang đi giữa biển nắng vàng. Trong vô thường cũng đã có sẵn cái bình thường. Như tuổi già cảm nhận được hạnh phúc về chiều của bước chân rong chơi cũng gần với ngày “đi thật” nên dẫu chân có bước giữa vô thường mà lòng vẫn thấy bình thường. Nếu khôngvô thường của tre tàn thì làm sao có bình thường của măng mọc.

Thành phố New Orleans – một thời là một trong bốn thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ – đã hồi sinh sau thiên tai. Đời sống đang tấp nập trở lại tự nhiên như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; rồi Xuân… Chúng tôi dừng lại khu thị tứ French Quarter, nơi được xem như mảnh hồn văn hóa châu Âu cũ của những ngày cả miền Đông Nam nước Mỹ còn ở trong ảnh hưởng Pháp. Chín giờ sáng, muốn vào uống một tách cà phê kiểu Tây ở quán Du Monde cũng phải sắp hàng dài mất cả tiếng đồng hồ. Du Monde của 29 năm về trước nằm nhỏ nhắn xinh xinh trên bãi cỏ xanh bên bờ sông Mississippi lộng gió không còn nữa. Dãy thành cao đã che chắn tầm mắt thủy thủ của khách phương xa về đây tìm lại hình ảnh sóng nước của dòng sông.

Rời quán nước, chúng tôi tìm thăm các chùa Phật giáo Việt Nam nơi đây. Với một cộng đồng người Việt 15 nghìn người, New Orleans có 3 chùa. Cả 3 chùa đều đẹp, kiến trúc mỹ thuật mỗi nơi một vẻ, nhưng có vẻ vắng người sinh hoạt trong một ngày cuối tuần đẹp trời như hôm nay. So với thành phố Sacramento nơi tôi đang ở có 13 chùa với số dân Việt 18 nghìn người. Những số liệu và số lượng chưa hẳn đã nói lên được điều gì quan trọng. Nhưng ít nhất cũng phản ánh được khía cạnh của nhu cầu và thực tế.

Trong ý tưởng hành hương mùa Hè, tôi tự tạo những cơ hội "thuận duyên" cho mình được viếng các chùa viện Việt Nam từ miền Tây sang miền Đông; từ các vùng Trung Mỹ lưa thưa người Việt đến xứ "sa mạc trường canh" có nơi nóng tới 111 độ F như ở xứ Arizona gần biên giới Mễ Tây Cơ. Có khi ngồi trên máy bay cất cánh rồi, tôi mới chợt nhận ra là chưa biết đêm nay mình sẽ xin ngủ lại chùa nào, nhất là khi về Nam Cali, nơi có nhiều chùa Việt Nam và phần lớn có người quen biết nên khỏi phải "báo trước giữ chỗ" theo kiểu Mỹ.

Thật là thú vị. Nhất quận công, nhì không nhà. Đi mà nơi đâu cũng thảy đều có thể là nơi chia tay, điểm hội ngộ và chốn quay về với cái tâm vô cầu, cái chí vô quái ngại là cả một niềm an lạc. Hơn thế nữa, chi phí cho "tam thường" như ăn, ngủ, mặc càng già càng đơn giản nên nằm trong khả năng khiêm tốn của tuổi già muốn làm khách hành hương.

 Nét đẹp truyền thống của các chùa Việt bình thường so với các chùa Tàu, chùa Tây Tạng, chùa Nhật Bản… nguy nga đồ sộ trên xứ Mỹ nầy là điểm dễ ghé, dễ gần khi khách hành hương muốn tới lễ Phật, làm công quả. Cái đẹp đơn giản mà hầu như chùa Việt nào cũng có là tinh thần hoan hỷ đón khách: Một chung trà với thầy Trụ trì, một bữa cơm chay với các bác Đạo hữu, một đêm ngủ chùa thức khuya dậy sớm mà đôi mắt không cay sè ngái ngủ theo tiếng chuông công phu là hương vị cửa thiền đầy thanh nhã. Có thanh nhã mới thanh thoát. Có thanh thoát mới thanh cao. Có thanh cao thì trạng thái tâm linh mới nhẹ nhàng gần phương giải thoát.

Mùi tục lụy dễ làm cho những con đường tìm về phương trời cao rộng của tâm linh là tiền bạc, vật chất. Tiền là huyết mạch của đời sống phàm trần; nhưng đồng thời cũng là nghiệp chướng làm cho con ngưòi điên đảo. Tiền là chỉ dấu quan trọng nhất của sự sở đắc. Nó xác định cái "có" của thế giới hình tướng. Cái có là bến bờ sau cùng của sự giác ngộ hình tướng. Thái tử Tất Đạt Đa đã tới được bến bờ của sự "giác ngộ hình tướng" đó khi sinh ra đời trong cung vua. Nhưng sau lớp hình tướng của ngai vàng, điện ngọc, quyền lực, tiền bạc lạnh lùng; của ái dục tham đắm và si mê thì sự đau khổ của kiếp người vẫn còn nguyên vẹn. Đau khổ vừa là nguyên nhân mà cũng vừa là hậu quả của thế giới hình tướng. Qua bao nhiêu thời gian, con người đã tuyệt vọng ném sự đau khổ của mình cho ma quỷ lẫn thần thánh với ước mong được cứu rỗi giữa đời nầy và sau khi chết. Con người đã quá mệt mỏi nên sinh ra lười biếng lý luận. Họ ném cục đá vào không gian vô tận với tất cả lòng tinđiều kiện rằng, họ sẽ quăng vỡ mặt trời cho trần gian... đỡ nóng! Chỉ có một người không hung hăng quăng cục đá phá mặt trời xa vời tít tắp trên cao ấy – do tham lam, sân sikiêu mạn gây nên – mà hoàn toàn tĩnh lặng, chiêm nghiệm cái nóng thiêu đốt phát khởi tự lòng mình: Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, tiền thân của đức Phật Thích Ca.

Đạo Phật là tập đại thành của một dòng tâm thức, ý thứcnghiệp thức, nhất quán từ bỏ cái Có hình tướng để tìm về cái Chân Không Rỗng Lặng của thật tánh uyên nguyên nằm sẵn trong mỗi sinh thể. Sự từ bỏ ấy cần quy hợp cả "tam chánh hạnh" là hạnh Bi, hạnh Trí và hạnh Dũng. Sự suy diễn sai lầm nhất của những đầu óc duy Tướng, kiến Tướng mà không nhận ra lý Tánh giữa cuộc đời hiện thực nầy là chỉ thấy sự buông bỏ vật chất, thái độ từ bỏ danh vị hão huyền của đạo Phật như là một thái độ yếu đuối, bi quan xa rời cuộc sống hay tệ hơn nữa là "thủ tiêu tinh thần tranh đấu"! Khi cần, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã phát huy oanh liệt hạnh Dũng để cầm quân ra trận đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên, thể hiện tròn đầy hạnh Trí để nhường ngôi vua và theo đuổi đến cùng hạnh Bi để xuất gia lên núi Yên Tử.

Đức Phật không gọi tên hay dán nhãn hiệu mà nhìn thấu tận gốc rễ của thực thể muôn loài, muôn vật để đưa ra phương thức đối trị. Phật nhìn thấu suốt cái Tánh Rỗng Lặng của cái Ta giả tạm và cái Người hư huyễn. Bám vào cái bè lau cứu rỗi của thần thánh giữa dòng đời chảy siết trong sinh diệt trùng trùng là cái khổ của vô minh. Cho nên, cần tỉnh táo để tự cứu mình và giúp người biết tự giải cứu ra khỏi dòng u trầm đau khổ đó, không có lý giải nào siêu việt hơn là biết xả bỏ cái giả tạm, thấy được cái Không Chân Thực để nương theo và tự cứu mình.

Lịch sử thăng trầm của đạo Phật trong hơn hai nghìn năm trăm năm qua là lịch sử tranh đấu gay go vừa nội tại, vừa ngoại cảnh giữa Chánh NiệmVọng kiến; giữa cái Có Đời Thường và cái Không Rỗng Lặng của Đạo. Tự bản chất, Đạo là con đường sửa sai, làm lành để nuôi lớn lòng trong và trí sáng; chứ không phải là một chuỗi sinh hoạt van xin, cầu khẩn để mỗi ngày trở nên yếu đuối, nương nhờtối tăm hơn.

Tuy lịch sử không lập lại nguyên trạng như chuyện tắm hai lần trên cùng một dòng sông; nhưng hệ quả của một sự suy tàn hay đổ vỡ trong một hệ thống tôn giáonhân sinh quan và vũ trụ quan xuyên suốt Tánh Không như đạo Phật thường phát xuất từ một số nguyên nhân tương đốibản chất giống nhau. Thử điểm lại nguyên nhânhậu quả của những chặng đường “pháp nạn” của đạo Phật Đông Tây và xưa nay là do đâu?

Đạo Phật suy tànẤn Độ sau thời “cực thịnh” dưới triều đại A Dục Vương (Asoka, 272-236 TTL). Trong lịch sử hơn 2000 năm từ thời Hậu Hán đến “Thái bình thiên quốc”, qua 14 triều đại, đạo Phật Trung Quốc bị tàn hại tới bốn lần. Đạo Phật Triều Tiên sau thời vua Hiếu Tôn (1650-1659) đã mất hết sinh lực phải nương nhờ Phật giáo Nhật Bản vực dậy. Đạo PhậtViệt Nam sau thời đại Lý Trần cho đến ngày nay cũng đã trải qua bao nhiên lần thịnh suy. Hình trạng diễn ra tuy có khác, nhưng sự xuất phát thì đều bắt nguồn từ những tạp hợp nguyên nhân giống nhau. Mở đầ cho cuộc chấn hưng Phật giáo lớn rộng gần đây nhất do TháiĐại Sư chủ xướng tại trung Quốc thời 1930 và có ảnh hưởng lớn đến cácc tổ chức Phật giáo của các nước trong vùng, Chu Tử Kiều, một trong những khuôn mặt năng nỗ nhất của nhóm lãnh đạo cải cách đã nhận định:

“Trong ba ngôi Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng ví như Trí, Tâm, Thân của một cơ thể. Dẫu Trí sáng và Tâm lành đến mấy, nhưng Thân bệnh thì cơ thể đó cũng chịu cảnh khiếm dụng. Đó là khi nền tảng cơ bản làm xương sống cho sự sinh hoạt và phát triển của đạo PhậtTăng Đoàn bị suy đồi, mất dần phẩm chất. Chùa chiền, lễ nghi và chức danh trở thành hình thức trang trí và làm thước đo phàm tục cho công hạnh dày mỏng của nhà tu.”

 Trong Luật Tạng dành cho giới tướng Tỳ Kheo và Phương Thức Sám Tội, chương 4, phần Xả Đọa (Nissggiya), điều giới 18 quy định:

“Tỳ kheo nào tự tay cầm tiền, hoặc vàng bạc, hoặc bảo người cầm, hoặc để xuống đất mà nhận, phạm Xả Đọa.”

Về Điều Giới nầy, Chu Tử Kiều diễn giải thêm về tệ nạn đương thời đưa đến nhu cầu cấp thiết mở đầu cho phong trào chấn hưng Phật giáo:

 blank“ Ngày nay, đạo pháp suy vong, tiền bạc nằm trong tay bậc tu hành. Giới xuất gia sống xoa hoa, phù phiếm trên sự hy sinh công sức và tiền bạc của hàng cư sĩ, phật tử tại gia phải hy sinh mồ hôi nước mắt mới kiếm được. Hàng đại tăng, cao tăngdanh tăng chân tu thì mủ ni che tai tìm tới cõi vắng mà quy ẩn tu chứng cho riêng mình. Hàng phàm tăng vọng tu thì xuất hiện khắp nơi. Kẻ tham lam, ái dục đội áo mảo nhà tu bợ đỡ giới cầm quyền, mua chuộc giới trưởng giả đại gia, chia bè kết phái để kiếm quyền, kiếm lợi; an nhiên sống hưởng thụ trên sự hy sinh không đúng chỗ và tín tâm cúng dường sai lạc của khối tín đồ nhẹ dạ chỉ biết thụ động đến chùa với tinh thần sùng bái cực đoan gần như mê tín. Hành động phong thánh tu sĩ, dâng cúng tiền bạc của cảiđiều kiện của đại chúng Phật tử như thế đã gây ra tác dụng ngược chiều. Ý nghĩ tốt đẹp ‘cúng dường xây dựng đạo pháp’ ban đầu có nguy cơ biến tướng thành gió bão kim tiền làm suy vi đạo pháp. Một khi chấp thủ tiền bạc trong tay, lòng thanh tịnh của người tu hành sẽ trở thành bất tịnh. Tiền bạc sẽ sinh ra lòng tư hữu; thay vì tìm tới cửa Không, người tu hành sẽ bị dính mắc vào ham muốn cá nhân, bị thu hút vào đời sống có nhiều phương tiện vật chất tham dục của phàm nhân. Trong hai thập niên qua, ở Nam Kinh, Giang Tô, Triết Giang, Chấn Giang, Dương Châu, Hồng Châu, Phả Đà Sơn, Ngũ Đài Sơn… đã xây nên nhiều ngôi đại Già Lam thật là nguy nga tráng lệ. Nhưng đáng lo thay, tự viện thi nhau mọc lên càng cao, càng lớn thì giới hạnh của Tăng chúng càng kém và công hạnh của tăng đoàn càng bé lại.” (Chu Tử Kiều: Tam Phật Chủ Nghĩa. Thư Vụ Ấn Quán, 1931.)

Suy gẫm dòng lịch sử Phật giáo xưa và nay, khách hành hương bỗng thấy có những điều trùng hợp. Đạo Phậtcon đường đi tìm sự rỗng lặng của Không để giải thoát trong một thế giới bon chen đi tìm cái Có để xác định sự hiện hữusinh tồn. Đạo Phật không xuất thế như đạo Lão hay nhập thế như đạo Nho, vì thật ra, xuất thế cũng chỉ là mặt phải hay bề trái của nhập thế. Thay vì ôm sự nghiệp công danh của Khổng Mạnh thì lại ôm giấc mơ Lão Trang, xem thế sự như là một giấc mộng lớn. Với đạo Phật thì nhập thế cũng là xuất thế và cõi ra đi cũng là chốn quay về giữa thế cuộc trùng trùng duyên khởi.

Nói về nguyên nhân của những thời kỳ đạo Phật bị bài bác và tàn hại, đức Lạt Ma Đề Văn đã viết trong Phật Giáo Sử Luận, rằng: “Khi Phật giáo bị thế lực đời thường sử dụng thì cũng chính là khi người ta hiểu nhầm lẫn là “cực thịnh” vì bị dính mắc rồi bám chặt vào cái có của phàm trần. Vô hình chung, đạo Phật tự biến tướng thành một thế lực đại thù nghịch của các thế lực chủ trương “Sở hữu” quần chúng, vật chất, tiền bạc, địa vị, danh xưng… Trong cuộc đối đầu đầy mỉa mainghịch lý giữa một đạo Phật chủ trương tay không, tâm tịnh, lòng từ với những thế lực tay ôm vũ khí sáng lòa, tâm đầy thù hận, lòng quyết tiêu diệt kẻ thù như các thế lực Bà La Môn, Hồi Giáo, Nho Giáo đương quyền… thì làm sao đạo Phật tránh được những cuộc tàn hại quy mô như đã xẩy ra sau khi các triều đại hưng thịnh Phật giáo lụi tàn.” (Patham Pub; New Deli. 1981)

Điểm lại dòng giáo sử hơn 2000 năm, thời kỳ nào mà thiền sư trở thành quân sư, quan sư, quốc sư, vương sư… là đạo Phật đang bị dính mắc vào danh tướng và thế quyền đầy phiền não, báo hiệu chiều hôm trước của sự thoái trào. Thời còn tại thế, đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi Tỳ Kheo thường xuyên có các vị quốc vương, tể quan, trưởng giả tiếp cận và mời mọc đủ mọi điều. Nhưng tất cả đều như trăng soi đáy hồ; trăng lặn, hồ trong và chẳng còn lưu dấu vết. Vật sở hữu trong tay Phật và hàng đại đệ tử cũng chỉ có chiếc bình bát để ngày ngày khất thực và mấy mảnh pháp y đủ che thân. Nơi cư trú và nói Pháp của Phật và Tăng đoàn vẫn là khu vườn Cấp Cô Độc. Thế giới cao rộng của đạo Phật còn tỏa sáng muôn đời sautrí tuệ tròn đầy và gương soi vằng vặc về nếp sinh hoạt tịnh hạnh và giản đơn của chư Tăng.

Bởi vậy, cửa chùa còn được gọi là Cửa Tịnh.

Tịnh là một từ Hán Việt gồm hai ý: Trong sáng + sạch sẽ.

Hòn đá sạch sẽ mà không trong nên chưa tịnh.

Thau nước trong mà không sạch nên chưa tịnh.

Nhà chùa vừa trong vừa sạch nên gọi là tịnh xá.

Khi lòng người vừa trong, vừa sạch thì gọi là tịnh tâm.

Khi vào cửa chùa, Tịnh còn có thêm ý nghĩa là rỗng lặng vắng lặng, yên ắng, định tâm, chánh niệm (Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng). Tiền bạc cúng dường vào cửa nhà chùa thì được gọi là Tịnh Tài. Nghĩa là đồng tiền trong sáng, sạch sẽ, vắng lặng; không làm dấy động lòng kiêu của kẻ cho và lòng tham của người nhận.

Tiền bạc cúng cho nhà chùa phải là đồng tiền lương thiện.

 Người cúng, phải cho bằng cái tâm trong sáng, vắng lặng. Cho mà không cần ai biết và không cầu trả lại.

 Người nhận, cũng phải nhận bằng cái tâm trong sáng. Nhận mà không khởi lên ý nghĩ tham lam, sở đắc nào; và tuyệt đối phải sử dụng tiền bạc cúng dường vào những việc Phật sự hoàn toàn vắng bóng cái “Ngã” (ngã tham, ngã chấp, ngã sở, ngã dục, ngã mạn).

Xã hội hôm nay là một xã hội thực dụngsức mạnh của đồng tiền đang trở thành vô địch. Khi nền móng xã hội lung lay vì tiền thì chốn thiền môn, cửa giáo đường, nơi tu viện sẽ rất khó mà trở thành nơi vô nhiễm.

Trên bước hành hương mùa Hè năm nay, tôi đã được đi qua và biết nhiều nơi tôn giáo ở Mỹ. Hầu như ở đâu đời sống tâm linh cũng ít nhiều bị dao động hay chao đảovấn đề vật chất tiền bạc. Mức độ chao đảo mạnh hay yếu, lộ mặt hay được che chắn khéo léo còn tùy thuộc cá nhân và từng cơ sở chùa viện. Nhưng dẫu lạc quancẩn trọng đến mấy thì cũng khó mà phủ nhận được rằng, đạo Phật Việt Nam đang đứng trước cơn gió bão thử thách của thời đại vật chất thực dụng. Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh đến tình cảnh của đạo Phật Việt Nam vì đất nước và dân tộc Việt Nam vừa mới và đang trải qua những cơn quặn mình của lịch sử. Khi con người đối diện với một hoàn cảnh chưa ổn định thì tâm lý bon chen sở hữu tiền bạc để sống còn sẽ chế ngự đời sống tâm linh. Thứ “tâm lý sống còn” nầy thường rất phổ biến trong một hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế còn tranh tối tranh sáng, chưa định hình rõ rệt.

blankNhư lời sư Hằng Tịnh ở Đài Loan nói trong băng thuyết pháp năm 2011, nhan đề Tránh Bài Sư Phá Phật: “Xã hội ngày nay đang lâm cảnh ‘sùng tài đạo tán’. Nếu không khéo thì người cúng dường thiếu mất hạnh Bố thí Ba La Mật đã đành mà phía tiếp nhận lại càng xa công hạnh Lục độ Ba La Mật. Nghĩa là cả hai phía tín đồ cúng dường và phía tu sĩ tiếp nhận đều đang bị đồng tiền chi phối làm mất đi ý nghĩa tịnh tài song hành với tịnh tâm ở chốn cửa Thiền. Ngày nào tu sĩ còn nắm giữ tiền bạc trong tay thì ngày đó còn lâm cảnh tâm bất tịnh. Tâm loạn thì làm sao mà an trú trong giới luật cho đuợc. Nếu chưa độ được mình thì mong gì độ được ai. Bởi vậy, mỗi chùa cần có một Ban Tài Chánh minh bạch. Cần công khai rõ ràng về mọi sự thu chi. Vị tu sĩ trú trì chùa tuyệt đối không giữ tiền, không nắm tiền và không dính vào tiền là điều kiện tiên quyết cho tịnh tài không sinh ra bất tịnh. Phật tửtín tâm mà đặt tiền trong tay nhà tu là đang gián tiếp bài sư phá Phật mà vô tình không biết…Hệ Thống các chùa Thuyền Môn đã tổ chức cơ sở tịnh tài rất khéo là làm một thẻ Tín Dụng (credit card) cho thầy Trú trì. Vị Trú trì có quyền chi tiêu việc Phật sự theo nhu cầu cần thiết hàng ngày, nhưng việc dùng tiền đều hiện ra rõ ràng trong hồ sơ thẻ tín dụng hàng tháng, Cuối tháng, ban Tài chánh của chùa lo thanh toán mà không ai thắc mắc về sự trong sáng của Thầy trú trì nên pháp uy thầy càng tăng trong đại chúng.”

Phải chăng, khái niệm Tịnh tài truyền thống chốn thiền môn đang bị bứng ra khỏi nguồn gốc sinh khởi để trở thành bất tịnh khi sư Hằng Tịnh tha thiết nói lên mối quan hệ tiền bạc của nhà tu.

Hơn hai nghìn năm qua, hàng triệu ngôi chùa lộng lẫy nguy nga và triệu triệu tăng tín đồ chỉ còn là cát bụi. Nhưng trí tuệ Phật Đà và dáng vẻ thiền định, rỗng lặng của đức Phậtthế giới đạo Phật vẫn mãi mãibiểu tượng cho dòng tâm linh thái bình an lạc của nhân gian.

Tu không phải là chắp tay nhắm mắt theo đuôi dòng sự việc của tâm lý đám đông mà cần có sự chọn lựa. Trước khi tu chứng thì cần có tu sửa, tu tập, tu duỡng và tu hành. Vì tu là một tiến trình gạn đục khơi trong của thân và tâm nên “tu bụi” – Tu Giữa Bụi Trần – là khó nhất.

 

New Orleans, mùa Vu Lan 2011

Trần Kiêm Đoàn


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14302)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14562)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14356)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13269)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14634)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12641)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25229)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27862)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26338)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17228)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16523)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15914)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22133)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17129)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24898)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21954)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19057)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16169)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16779)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14664)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16698)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25026)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18770)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14775)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14371)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16611)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12921)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14939)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12699)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13884)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14599)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28018)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27179)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14346)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20948)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14669)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24174)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28673)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14733)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13283)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16444)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27227)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12018)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16074)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21479)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12376)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant