Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Trăng Sao Xóm Mới

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6470)
20. Trăng Sao Xóm Mới

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
 Huệ Trân 2008

TRĂNG SAO XÓM MỚI 

Mùa đông, dù ở trời Âu hay Á, ông mặt trời cũng thường làm biếng, thức trễ lắm! Hôm nay, cũng là ngày làm biếng trong tuần, theo lịch trình tu học khóa An Cư Kiết Đông ở Làng Mai nhưng chúng tôi vẫn thức dậy rất sớm, vì đã quen rồi. Gọi là ngày-làm-biếng, chỉ có nghĩa là không phải theo thời khóa nhất định chứ chẳng ai làm biếng cả vì chúng tôi trân quý từng phút giây hiện tại. Tối hôm qua, sư cô Chân Khế Nghiêm rủ tôi sáng sớm nay đi bộ lên đồi nho, đi và về khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Đây là vòng nhỏ, còn vòng lớn thì đi gần hai tiếng mới trở về lại xóm. Các sư cô đi vòng lớn đã khởi hành trước nửa tiếng rồi. Chu vi này được hoạch định nằm trong phạm vi giới trường của thời gian khóa tu. 

Tôi ra điểm hẹn là phòng điện thoại thì thấy có thêm sư cô Chân Đẳng Nghiêm, đang đeo bao tay. Sư cô đến từ tu viện Lộc Uyển, California Hoa Kỳ. Tôi đã từng được gặp sư cô trước đây khi đưa người bạn từ tiểu ban khác, tới thăm Lộc Uyển. Sư cô từng là bác sỹ y khoa, nhưng khi được gặp Thầy Nhất Hạnh, cô nhận ra con đường cứu khổsư cô có thể thực hiện, vượt xa ngoài phạm vi phòng mạch, thì sư cô đã quyết định xuất gia, mang Đạo Phật dấn thân để trị liệu cả thân và tâm cho đời. 

Sáu giờ sáng mà trời còn tối như đêm ba mươi, đêm giao thời giữa năm mới và năm cũ đối với người Tầu, người Việt chứ người Tây phương luôn nhanh chân, đón năm mới trước rồi. Những dấu mốc thời gian này do quan niệm và cái nhìn của mỗi phương. Dân tộc nào đặt ra cái gì thì trân quý cái đó. Thời gian lặng im, có nói gì đâu! Ấy thế mà có khi thì được trọng, được coi là vô cùng thiêng liêng, người người cùng nao nức chờ đón; có khi bị hắt hủi rủa xả, sao không qua mau đi! Nếu thời gian có thể lên tiếng, có lẽ không thiếu chuyện để nói về sự tức cười này. 

Chúng tôi cùng bước ra khỏi cổng xóm. Tôi nghe tiếng cô Đẳng hỏi cô Khế: 

- Có đèn pin không, sư em? 

Tiếng cô Khế dịu dàng

- Không cần đâu, mình vẫn đi vậy mà

“Mình”, ý nói các sư cô ở Xóm Mới thường đi bộ như thế. Dù từ xa tới, nhưng với tư cách là sư chị, cô Đẳng nhắc nhở: 

- Tuy quen đường, nhưng trời còn tối quá, lần sau phải mang đèn cho an toàn nhé. 

Cô Khế khẽ “Dạ”. 

Cô Khế đi trước, tôi chậm bước, để cô Đẳng đi giữa, mình theo sau cho chắc ăn. 

Trời lạnh lắm! Tôi đã độ mũ len, còn phải kéo mũ áo khoác phủ lên và đeo găng tay. Tạm ổn. Nhưng trời tối mà không đèn thì chỉ còn cách vừa bước, vừa niệm Quan Thế Âm. Từ xóm lên đồi nho phải băng qua chặng đường nhỏ khá dài, giữa hai hàng cây cao. Ban ngày thì chẳng có vấn đề chi, nhưng trời tối mù thế này, rừng cây hai bên bỗng mang vẻ bí hiểm đáng ngại. Đấy là với kẻ từ xa đến và nhát cáy như tôi mà thôi. Tôi không hề nhìn thấy mặt đường, cứ nương theo tiếng chân của hai sư cô mà bước theo thôi. Tôi biết, hai sư cô đang bước trong chánh niệm nên cũng giữ im lặng, quay về hơi thở, quán sát tâm hànhcảm giác an lạc đang chậm rãi đến với tôi. Bóng tối của rừng cây không còn bí hiểm nữa. Tôi băng qua đoạn đường đó không chút khó khăn. 

Bỗng tôi có cảm tưởng cô Đẳng đang bước chậm lại. Hình như cô chờ tôi. Quả đúng thế. Khi tôi cùng bước ngang với cô thì cô lại bước chậm hơn nữa. À, tôi hiểu rồi. Cô muốn tôi đi giữa để cô có thể canh chừng cho tôi. Trước khi rẽ vào khúc quanh của rặng cây cuối, chợt có tiếng xe hơi đang tới, rồi ánh đèn loang loáng quét nhanh trong bóng tối. Cô Đẳng bước nhanh hơn, tới ngang tầm tôi, cô đẩy nhẹ tôi vào lề cỏ, và cô ở phía mặt đường. Phản ứng của cô nhẹ nhàng nhưng rất nhanh. 

Cô đã làm rào cản, che chở cho tôi, nếu có gì bất trắc xảy ra. 

Khi chiếc xe đã chạy qua, cô bước chậm, để lại là người đi sau. 

Ba chúng tôi vẫn tiếp tục bước và hoàn toàn im lặng. Phải, chúng tôi không cần nói gì, bởi ngôn ngữ vong thân. Tình thương thể hiện dễ dàng khi lòng đã sẵn từ bi; gào thét và hì hục đánh bóng tình thương bằng ngôn ngữ suông thì tình thương đó chẳng bao giờ có mặt. Đó chỉ là vị kỷ, giả dối! 

Cám ơn sư cô Chân Đẳng Nghiêm qua bài học tình thương thầm lặng mà tràn đầy, như bầu trời lóng lánh trăng sao khi chúng tôi vừa vượt qua bóng tối của rặng thông cuối. 

Ủa, sao giờ này mà trăng chưa về ngủ? Nãy giờ trăng cùng đi bộ với chúng tôi đó ư? Trốn đâu kỹ mà tôi không thấy? 

Từ hôm về Làng, tôi bỗng có một cái đồng hồ báo thức trong đầu, nghĩa là, dù ngủ say hay ngủ mệt, khi tôi bấm đèn pin xem giờ, đều là bốn giờ rưỡi sáng, thế mới lạ! Nhưng một lần, tôi vừa mở mắt, chưa bấm đèn mà đã thấy ánh sáng. Đó là ánh trăng dịu nhẹ len qua những ô vuông cửa kính, đang bước rất êm đềm trên sàn gỗ, lên thành giường, qua lò sưởi… Tôi khe khẽ xoay đèn pin, nhìn đồng hồ. Kim chỉ đúng bốn giờ. 

Tôi nằm thật im, không dám nhúc nhích, sợ trăng tan! Hai phần ba cửa kính được che bằng màn vải mỏng. Từ đầu giường tôi nằm nhìn lên, tầm mắt ở ngay một phần ba những ô kính không che màn nên không phải điều chỉnh gì mà tôi được chiêm ngưỡng ánh trăng hiện ra toàn vẹn, toàn bích ngay đó. Tôi chỉ cần nằm im trong tư thế thiền-buông-thư là thấy trăng, có trăng ngoài trời và cả trăng trong lòng.

Không cần một ngón tay nào chỉ cả. 

Liên tục một tuần lễ, trăng đến với tôi như thế. Tôi cũng có ý đợi trăng nên khi mở mắt, nằm im lặng trong bóng đêm, không cần coi đồng hồ, tôi cũng biết đã bốn giờ sáng. 

Khi những đối tượng thật lòng với nhau thì cảm thông thế đấy, chứ không mơ hồ, hoài nghi như một thi sỹ thời Đường: 
 “Sàng tiền khán nguyệt quang 
 Nghi thị địa thượng sương 
 Cử đầu vọng minh nguyệt 
 Đê đầu tư cố hương” 

 Tạm dịch: 

 “Đầu thềm chênh chếch bóng trăng 
 Loang trên thềm đất, ngỡ rằng sương rơi 
 Ngẩng nhìn trăng tỏ sáng người 
 Cúi đầu luống những bồi hồi nhớ quê” 

Tôi biết rất rõ đang được trăng đến thăm. Trăng không sáng vằng vặc mà rất nhẹ, rất êm, như bước chân mẹ hiền vào thăm giấc ngủ con thơ. Hay Mẹ đang theo trăng, về với tôi? Chỉ nhìn trăng thôi mà lệ chảy, có lạ không? Lệ chảy vì trăng đang hóa thân thành Quan Âm Bồ Tát, chỉ thinh lặng và lắng nghe. 

Trăng ơi, có phải câu thư pháp trên vách tường chùa Viên Thông rất thơ, rất thiền hay không: 

 “Khách về bỏ giở chung trà nguội 
 Mới biết tri âm chẳng dễ là!” 

Có lẽ, tìm tri âm khó đến thế nên Bá Nha mới đập đàn khi mất Tử Kỳ! 

Đó là lòng thủy chung khi mất nhau. 

Ngoài đời kia, đã và đang tiếp diễn bao cảnh huống mất nhau vì phản bội, ích kỷ, tỵ hiềm mà người trong cuộc vẫn vô minh tiếc nuối! 

Sự khổ đau ở ngay nơi đây. 

Đức Phật từng dạy, không ai có thể làm khổ ta, ngoài chính ta, vì hạnh phúc hay đau khổ do chính tâm ta tạo tác. Ta thất vọng, bởi ta đã từng kỳ vọng. Đối tượng do ta chọn. Kỳ vọng vào đối tượng cũng do ta mong như thế, rồi đặt vào. Tại sao ta chọn, ta mong? Bởi cái tâm mong cầu của ta nó muốn như thế, nên khi bản chất của sự việc phơi bầy không như những hào nhoáng do tâm vẽ thì ta thất vọngđau khổ

Hãy làm người lữ khách đứng bên lề, tự nhìn giòng đời mình trôi bằng tâm tĩnh lặng, trong sáng. Lữ khách với giòng đời là hai mà một, như khi ta soi gương, bóng với hình tuy một mà hai. Nếu ta không cười, bóng chẳng thể cười, nhưng bóng sẽ chẳng hiện ra nếu ta không còn đó. Vậy thì, lữ khách kia ơi, hãy quay về bản tâm, nhìn mình cho thật kỹ đi, những khổ đau tưởng trời long đất lở mà thực chất vô thường, đáng cho ta quăng xuống lề đường hay khệ nệ gánh lên vai mà đi??? 

Thôi, hỡi những lữ khách đang khổ lụy lần mò trong bóng tối, hãy dừng lại, thở thật sâu, bước chậm rãi, nhìn trời xanh mây trắng và ý thức là ta đang thở, đang bước, đang nhìn bông hoa nở, đang nghe tiếng chim ca. Ta đang sống và đang làm chủ mọi cảm thọ. Ta phải thông minh để biết mỉm cười với giây phút hiện tại, nhìn cái vui cái buồn đó như đối tượng bị nhìn, chứ vui buồn đó không phải là TA; bởi vì vui buồn nào, thủy chung nào, phản bội nào, tình đầy hay nghĩa vơi nào rồi cũng qua, bằng cách này hay cách khác. Chỉ có CÁI NHẬN BIẾT những trạng huống đó là còn đó và tồn tại mãi mãi để tiếp tục nhận biết những cái đến rồi đi. 

Cái-nhận-biết này chính là CÁI TA mà khi mới chào đời, Đức Thế Tôn đã bước bẩy bước hoa sen rồi nói: 

 “Thiên thượng thiên hạ 
 Duy ngã độc tôn” 

Ấy thế mà ta thường không biết trân trọng bản chất cao quý sẵn có đó, lại chạy theo những cái chưa từng thực có, chỉ là sản phẩm của tâm vọng tạo ra, rồi bám chặt, giữ kỹ, nên khi bị hư hao hay bị kẻ khác cướp đoạt mất thì khổ đau, tủi hổ! 

 Thôi, 
 Lữ khách kia ơi, 
 Hãy chào vĩnh biệt những khổ đau. 
 Hãy chào vĩnh biệt những kẻ làm ta khổ đau. 
 Hãy chào vĩnh biệt những hoài vọng quá khứ
 Hãy chào vĩnh biệt những mơ tưởng tương lai. 

Rồi hãy nhận biết là ta đã dừng lại. Ta đang đứng trên mặt đất. Ta cảm nhận bàn chân ta đang tiếp xúc với thảm cỏ. Mắt ta đang nhìn những bông hoa dại nhỏ xíu, mỉm cười với ta. Tai ta đang nghe tiếng đôi chim thăm hỏi, đậu trên cành sầu đông trụi lá. Và vầng trăng trên cao, thật xa, xa tít tận phương nào còn ân cần trở về ô vuông cửa kính của căn phòng nhỏ hẹp để lắng nghe ta, ôm ấp ta, nhắc nhở ta những vô thường tưởng là thường, vô ngã tưởng là ngã, khổ tưởng là lạc, không tưởng là tịnh. 

Vậy mà ta còn chưa biết thương ta ư? Đó có phải là chân dung của kẻ-cùng-tử, vừa choàng tỉnh dậy sau giấc mộng dài! 

Ngoài kia còn nhiều khổ đau lắm! Lữ khách ơi, hãy mang sự chuyển hóa - dù nhỏ nhoi - mà chia xẻ để cùng trị liệu những vết thương. Người cho và người nhận sẽ truyền năng lượng lẫn cho nhau. Lữ khách sẽ có thêm nhiều đồng hành, và trên con đường chuyển hóa, chúng ta sẽ gặp thêm nhiều đồng hành nữa. Từng bước, chúng ta sẽ cho và nhận, rồi nhận và cho, như ánh sáng những ngọn nến, nó tỏa chiếu chính nó và tỏa chiếu lẫn nhau. 

Nhiều ngọn nến sẽ xóa tan bóng tối. 

Cám ơn Trăng Xóm Mới đã đậu bên ô cửa, chia xẻ và lắng nghe. Cám ơn trăng đã rủ thêm muôn sao lấp lánh theo bước chân thiền hành để những sáng mùa đông không còn lạnh lẽo. Ta có mặt cho nhau, thế đã là quá đủ. Cảm nhận được nguồn năng lượng kỳ diệu của Im-Lặng-Bát-Nhã mới thấy thương những vọng động của ngôn-ngữ-vong-thân. 

 “Ta vẫn còn đến, đi thong dong 
 Có, không, còn, mất, chẳng băn khoăn 
 Bước chân con hãy về thanh thản 
 Không tròn, không khuyết, một vầng trăng 

 Gió vẫn còn bay, con biết không? 
 Như mưa xa tiếp áng mây gần 
 Hạt nắng từ cao rơi xuống thấp 
 Cho lòng đất thấy bầu trời trong” (*) 

Biết rằng trăng này tỏa sáng muôn nơi, vào ra ba cõi, chẳng thuộc riêng ai, nhưng trăng đã đến cùng tôi những phút giây mầu nhiệm, khiến tôi thấu hiểu và cực kỳ rung động khi cất tiếng ngâm những câu thơ trên, nên tôi nghe trong tôi thầm thì: “Cám ơn Trăng Sao Xóm Mới”. 

(Tháng hai 2008 – Xóm Mới, Làng Mai) 

(*) Thơ: Thiền-sư Nhất Hạnh 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10198)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11255)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13593)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13745)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22223)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17790)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25251)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23296)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28594)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25724)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22314)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14002)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13442)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22488)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26399)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18490)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18969)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34524)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27392)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28432)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19222)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18580)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15667)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14030)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11796)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11635)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11346)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11902)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19950)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12400)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13945)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13277)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31995)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13444)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13339)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21874)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11098)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12910)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant