Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Tịnh hóa tâm thức

03 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 8594)
03. Tịnh hóa tâm thức
TỊNH HÓA TÂM THỨC
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 04/10/2011

Bản chất của tâm là ánh sáng trong suốt (Tịnh Quang)
Những nhiễm ôbề ngoài (khách trần phiền não)
- DHARMAKIRTI

 

blankCó thể loại trừ những cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng mà thôi? Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật, tâm một cách cốt yếu là sáng rỡ và tri nhận. Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm; những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.

Nếu những cảm xúc tai họa như giận dữ vốn ở trong bản chất của tâm, thế thì từ lúc khởi đầu tâm sẽ luôn luôn giận dữ. Một cách rõ ràng, điều này không phải như thế. Chỉ dưới những hoàn cảnh nào đó chúng ta mới trở nên giận dữ và khi những hoàn cảnh đó không hiện hữu, giận dữ cũng không hiện diện.

Những hoàn cảnh nào phục vụ như căn bản cho việc phát sinh giận dữ hay thù hận? Khi chúng ta giận dữ, đối tượng sự giận dữ của chúng ta xuất hiện dễ sợ hơn nó thật sự ở đấy. Chúng ta đang giận dữ bởi vì người đã làm tổn hại, đang làm tổn hại, hay sẽ làm tổn hại chúng ta hay bạn bè chúng ta. Vì vậy "cái tôi" này là gì mà đang bị làm tổn hại?

Trong sự phô trương của cơn thịnh nộ chúng ta cảm thấy rằng chủ thể, "cái tôi" và khách thể, kẻ thù, là cụ thểđộc lập. Bởi vì chúng ta chấp nhận những hiện tướng này như một sự thiết lập cố hữu, nên giận dữ được phát sinh. Tuy thế, nếu tại sự bùng nổ đầu tiên của giận dữ, chúng ta đã quen với lý trí tự hỏi mình, Tôi là ai? Con người này là ai mà đang bị tổn thương? Kẻ thù là gì? Có phải kẻ thù là thân thể? Có phải kẻ thù là tâm? kẻ thù hiện hữu một cách cụ thể này, người trước đây dường như là được tạo nên một cách cố hữu như điều gì đấy để giận dữ, và "cái tôi" này, kẻ được tạo nên một cách cố hữu bị tổn thương, dường như biến mất. Và sự giận dữ tan thành từng mảnh.

Nghĩ về điều ấy. Chúng ta giận dữ tại những gì làm thất bại những khao khát của chúng ta. Giận dữ bị xúi bẩy bởi nhận thức sai lầm khách thể và chính chúng ta được thiết lập trong cách này (như kẻ thù và nạn nhân) trong tự chúng và của chính chúng. Thù hận không tách rời khỏi nền tảng của tâm. Nó là một thái độ không có nền tảng vững chắc. Tuy nhiên, yêu thương từ ái được tìm thấy một cách có căn cứ trong chân lý. Khi, trải qua một thời gian dài, thái độ có nền tảng vững chắc tranh đua với thái độ không có cơ sở, thì thái độ với nền tảng vững chắc sẽ lấn át thứ kia.

Những phẩm chất tùy thuộc trên tâm có thể được gia tăng một cách vô giới hạn, và khi chúng ta tăng cường các thái độ đối kháng với những cảm xúc buồn đau, những bộ phận tương ứng không thiện chí sẽ giảm thiểu, cuối cùng trở nên bị dập tắt hoàn toàn. Vì tâm có bản chất tự nhiên rực rỡ và tri nhận, nên tất cả chúng ta có khí cụ căn bản cần thiết để đạt đến giác ngộ.

NHẬN DIỆN TÂM

Khoảng hai mươi năm trước đây, khi tôi ở Ladakh, Ấn Độ, tiến hành một loạt thiền quán, tôi có một bức tượng Đức Phật Thích Ca phía trước tôi, như vẫn là thói quen của tôi. Lớp vàng ở trái tim bức tượng đã bong mất rồi, và vì thế ở nơi ấy lộ một màu nâu. Khi tôi nhìn vào vùng trái tim của bức tượng, bây giờ không có màu sắc hấp dẫn nữa, nhìn vào tâm tư tôi, cuối cùng tư duy dừng lại, và trong một lúc ngắn ngủi, tôi cảm thấy tự nhiên rực rỡ và tri nhận của tâm. Rồi sau đó, khi tôi hồi tưởng lại điều này, kinh nghiệm sẽ trở lại.

Thật rất hữu ích trong sự thực tập hàng ngày để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm và tập trung trên ấy. Tuy nhiên, thật khó để nắm bắt tâm bởi vì nó ẩn tàng bên dưới những tư tưởng dàn trải của chính chúng ta. Như một kỹ năng để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm, đầu tiên dừng suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ, rồi thì dừng suy nghĩ về những gì có thể xảy ra trong tương lai, hãy để tâm tuôn chảy phù hợp với chính nó mà không có sự phủ lên của tư duy. Hãy để tâm ngừng lại trong thể trạng tự nhiên của nó và quán xét nó trong một lúc.

Khi, thí dụ, quý vị nghĩ một tiếng động, giữa lúc nghe nó và nhận thức nguồn gốc của nó, chúng ta có thể cảm nhận thể trạng của tâm trống rỗng tư tưởng nhưng không phải ngủ, trong điều mà đối tượng là một sự phản chiếu của sự rực rỡ và tri nhận của tâm. Tự nhiên căn bản của tâm có thể được nắm bắt tại một điểm như vậy. Vào lúc bắt đầu, khi chúng ta không quen với sự thực tập này, thì thật là khó khăn, nhưng đúng lúc tâm sẽ xuất hiện như nước trong vắt. Hãy cố gắng để trụ với thể trạng này của tâm mà không bị xao lãng bởi những tư tưởng nhận thức và tập cho quen thuộc với nó.

Thiền tập đề mục này vào buổi sáng sớm, khi tâm chúng ta đã tỉnh giấctrong sáng, nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt động hoàn toàn. Cũng lợi ích nếu không ăn quá nhiều tối đêm qua, cũng không ngủ quá nhiều: giấc ngủ của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và điều này làm cho tâm thư thái hơn cũng như sắc bén hơn vào sáng hôm sau. Nếu ăn quá nhiều, giấc ngủ sẽ dày và nặng, gần giống như thây ma. Trong việc tu tập hằng ngày, tôi ăn no nê vào lúc điểm tâm và buổi trưa nhưng chỉ ăn chút ít vào buổi tối - ít hơn nửa chén hạt dẻ hay bánh quy giòn; rồi tôi lên giường sớm và thức dậy lúc năm giờ ba mươi vào buổi sáng để bắt đầu thiền tập.

Thấy đấy nếu chú ý đến bản chất của tâm vào buổi sáng sớm tâm chúng ta sẽ tỉnh giác hơn suốt ngày. Tư tưởng chúng ta chắc chắn sẽ tĩnh lặng hơn. Trí nhớ của chúng ta sẽ cải thiện nếu chúng ta có thể thực tập một ít thiền quán mỗi ngày, rút lui khỏi tâm phân tán. Tâm nhận thức quanh quẩn trong việc suy nghĩ những chuyện tốt, những chuyện xấu, v.v... sẽ được ngơi nghỉ. Một chút không phân biệt có thể cung ứng một sự ngơi nghỉ cần thiết rất nhiều.

Thiền Quán

1- Không nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ hay những gì có thể xảy ra trong tương lai.
2- Hãy để tâm tuôn chảy thích hợp với nó mà không suy nghĩ.
3- Quán chiếu bản chất rực rỡ trong sáng của tâm.
4- Trụ với kinh nghiệm này trong một lúc.

Chúng ta có thể thực tập những đề mục này trong khi nằm trên giường vào buổi sáng, tâm chúng ta tỉnh thức nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt động hoàn toàn.

ĐỐI KHÁNG NHỮNG RẮC RỐI

Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng chẳng hạn như thèm khát, thù hận, và ganh tỵ. Tất cả bọn chúng tùy thuộc trên sự tin tưởng sai lầm ban đầu rằng những đối tượng tồn tại như những thực thể độc lập, trái lại trong thực tế chúng không như thế. Qua năng lực của si mê như vậy, tất cả những cảm xúc buồn khổ này sinh khởi. Nhưng như chúng ta đã thấy, khi chúng ta phân tích thì có phải nỗi si mê này và những rắc rối tháp tùng của nó là bản chất bên trong của chính bản tâm không, chúng ta thấy, như đại luận sư Ấn Độ Dharmakirti đã nói, "Bản chất của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang. Những nhiễm ôbề ngoài (khách trần phiền não)." Bản chất của thức vi tế sâu xa nhất là tinh khiết. Giận dữ, dính mắc, v.v... thuộc ngoại biênkhông tồn tại trong căn bản của tâm. Chúng ta gọi điều này, nền tảng bẩm sinh của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang. Bởi vì nó làm cho giác ngộ hiện thực, nó cũng được gọi là Phật tính. Nó hiện hữu tại gốc rễ của tất cả thức. Cũng thế, tất cả chúng ta có một trình độ nào của bi mẫn, mặc cho những sự khác biệt trong sự phát triển và kiến thức, và tất cả chúng ta có một sự thông tuệ phân biệt giữa tốt và xấu. Đây là tất cả những điều kiện cho giác ngộ.

Một khi chúng ta biết rằng những nhiễm ô không "cư trú" trong bản chất của tâm, có thể loại trừ chúng qua việc phát sinh những đối trị với chúng, những thái độ, như thuốc men, có thể chống lại chúng. Nhưng nếu những nhiễm ô không tách rời khỏi căn bản tâm, thế thì ngay khi mà tâm thể hiện chức năng, những tư tưởng tệ hại - giận tức, v.v... - sẽ phải hiện hữu, nhưng điều này không phải như vậy. Ngay chính lúc này, tâm chúng ta đang đọc và suy nghĩ: giận tức chắc chắn không hiện diện. Những thái độ như giận tức và dính mắc có thể được tách rời khỏi tâm chính yếu.

Vào những lúc trong đời sống chúng ta, tâm chúng ta bám chặc với giận tức và dính mắc, và vào những lúc khác là buông xả, toại nguyện, từ ái, và bi mẫn. Chúng ta không thể cảm thấy tham dục và thù hận chính xác cùng lúc đối với cùng một đối tượng. Chúng ta chắc chắn có thể có những cảm nhận này tại những thời điểm khác nhau, nhưng không cùng trong một thời điểm, điều này cho thấy rằng hai thái độ này thể hiện chức năng trong sự mâu thuẫn với nhau. Khi một trong chúng, thứ này gia tăng sức mạnh thì thứ kia giảm xuống.

Nhận thức vững chắc hỗ trợ từ ái và bi mẫn. Sự trình bày của chúng không cần sự giúp đở từ si mê ám chướng là thứ đã nhận định sai lầm các đối tượng như tồn tại cố hữu (có tự tính), hay trong chính chúng và tự chính chúng mà thôi. Những thái độ phi đạo đức như thù hận và kiêu mạn - cho dù chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa - chỉ được sản xuất với sự hỗ trợ và giúp đỡ của vô minh si ám. Do vậy, không có nhận thức sai lầm này trong bản chất của con người và sự vật, thì không có cách nào tham dục và thù hận có thể triển khai. May mắn thay, những thức đối lập với tham dục và thù hận có thể hoạt động ngay cả khi không có nhận thức sai lầm về sự tồn tại cố hữu.

Si mêtuệ trí cả hai quán chiếu cùng những hiện tượng vạn pháp, nhưng những cung cách mà chúng nhận thức vạn pháphoàn toàn đối nghịch. Tuệ trí có nền tảng vững chắc, trái lại si mê ám tối không có nền tảng có căn cứ và sai lầm với những gì nó nhận thức. Gia tăng sức mạnh của tuệ trí làm yếu si mê. Tuệ trí làm giảm thiểu việc lãnh hội sai lầm về bản chất con người và sự vật cho đến khi si mê biến mất.

VẤN NẠN Ở PHÍA BÊN TRONG 

Những hoàn cảnh ngoại tại không phải là những gì đưa đẩy chúng ta vào khổ đau. Khổ đau được tạo nên và cho phép bởi một cái tâm chưa thuần hóa. Tâm bản nhiên trong sáng bị che phủ bởi những cảm xúcnhận thức phiền toái này. Năng lực lừa đảo của chúng đẩy chúng ta vào những hành vi sai lầm, những điều đưa đến khổ đau không tránh khỏi. Chúng ta cần, với sự tỉnh thứcquan tâm lớn, để phân biệt những thái độ rắc rối, thì phương cách tập hợp mây mù sẽ tan biến trở lại trong không gian của bầu trời. Khi những thái độ, các cảm xúc, và những nhận thức tự thất bại ngừng lại, những hành vi tổn hại sinh khởi từ chúng cũng chấm dứt. Như đại hành giả du già Tây Tạng cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12 Milarepa đã nói, "Khi sinh khởi, sinh khởi tự trong không gian của chúng, khi tan biến, tan biến trở lại không gian". Chúng ta cần trở nên quen thuộc với thể trạng của tâm tư chính chúng ta để thấu hiểu những ý tưởng và những thôi thúc vô căn cứ trở lại không gian sâu thẩm của thực tại như thế nào. Bầu trời vẫn ở đấy trước khi mây mù che phủ, và nó vẫn thế sau khi mây ám tan đi. Nó cũng hiện diện khi mây đen dường như che kín từng phân vuông của bầu trời mà chúng ta có thể thấy.

Bản chất của nước không bị ô nhiễm bởi rác rưởi, bất chấp dơ bẩn như thế nào. Cùng cách như thế, bản chất ngay cả một tâm thức rối rắm là không bị nhiễm ô bởi cấu uế. Tâm Tịnh Quang của bất cứ chúng sinh nào cũng không bị nhiễm ô bởi những cảm xúc phiền não như thù hận. Lần kế tiếp chúng ta cảm thấy thù hận, hãy thấy chúng ta có thể tách ra khỏi dòng chảy chính của tâm chúng ta như một người quán sát sự thù hận. Trái lại chúng ta thường nghĩ, "tôi ghét.." giống như cảm giác của chúng ta về tự ngã và thù hận là hoàn toàn kết chặt với nhau, ở đây chúng ta đang nhìn sự thù hận từ một khoảng cách mong manh,thấy sự sai lầm của nó, là điều chính nó tạo nên thể trạng hấp dẫn này để tĩnh lặng một cách tự nhiên.

Để làm điều này, trước nhất chúng ta cần phát triển một khả năng để nhìn vào tư tưởng của chúng ta, vì cho đến khi mà ý thức của chúng ta còn bị đắm trong nhận thức hóa, thật khó khăn cho tư tưởng quán sát tư tưởng. Nhưng nếu, khi các tư tưởng sinh khởi, chúng ta có thể tách ra một chức năng quán sát để nhìn chúng, rồi thì dần dần, chúng ta sẽ phát triển một khả năng dể phát triển một năng lực của ý thức quán sát ý thức, và ngay cả tại những thời điểm của thù hận, một nhân tố từ trong tâm ấy sẽ có thể bước ra ngoài sự giận tức. Bằng việc quen thuộc với ý thức như cả người biết và đối tượng được biết, chúng ta có thể đi đến để nhận ra những gì được gọi là "tâm bình thường", không bị ảnh hưởng bởi sự thích hay không thích, muốn hay không muốn. Khi tâm không bị phân hóa thành nhiều chức năng khác nhau, thể trạng tự nhiên sáng rỡ và tri nhận có thể được nhận ra, và nếu chún ta trụ với điều này, kinh nghiệm của sự rực sáng và tri nhận sẽ gia tăng. Vì bản chất nội tại ngay cả của thù hận là rực sáng và tri nhận, thù hận sẽ dần dần tan chảy vào trong bản chất của ý thức.

Chúng ta không phải dừng một cách cố ý những tư tưởngcảm giác đa dạng bắt đầu ló dạng trong tâm; đúng hơn, không nên tiêm nhiễm trong chúng, đừng để tâm chúng ta bị đẩy vào trong chúng. Tâm rồi thì sẽ đảm nhiệm hình thức tự nhiên của nó, và Tịnh Quang của nó có thể được xác định. Sau đó sự thanh tịnh căn bản của nó có thể được biết.

Khi chúng ta thấu hiểu rằng Tịnh Quang là bản chất tự nhiên của nội tâm chúng ta, những phẩm chất ngày càng lớn hơn và lớn hơn như sự biểu lộ từ ái hay lòng yêu thương vô chấp. Đây là tại sao sự chuyển hóa tinh thần không thể là kết quả của việc thực hiện những thay đổi môi trường bên ngoài của chúng ta. Việc đạt được nhiều thứ hơn một khi chúng ta có những gì cần thiết không đưa đến sự toại nguyện.

Sự giải thoát đạt được bằng việc biết rằng bản chất tối hậu của chính tự tâm: nó không được ban tặng cho chúng ta bởi một người nào đấy hay điều gì khác. Hạnh phúc đến qua việc thuần hóa tâm; không có sự thuần hóa tâm thì không có cách nào để hạnh phúc. Bất chấp bản chất của thế gian chúng ta sẽ không khổ sở vì phiền não hay gây ra đau khổ khi chúng ta tin cậy trong bản chất nền tảng rực sáng của tâm, Tịnh Quang của nó.

TÂM KIM CƯƠNG

Căn bản tự nhiên và sáng rỡ của Tịnh Quang là cội nguồn của tất cả những tâm thức - là vĩnh viễn không thể phá hủy được, không thể biến đổi được như kim cương. Trong Đạo Phật, khía cạnh này của tâm được xem như thường trụ trong ý nghĩa sự tương tục của nó là liên tục - nó luôn luôn tồn tại và sẽ tiếp tục mãi mãi và vì thế không là điều gì đấy được bắt đầu một cách mới mẻ bởi nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện).

Tâm căn bản của chúng ta thanh tịnh một cách chính yếu, tự nhiên trống rỗng rắc rối ngay từ bắt đầu. Trong nó, tất cả mọi hiện tượng thanh tịnhnhiễm ô xuất hiện như những sự biểu hiện tự nhiên thanh thoát của nó. Hào quang chói lọi rực rỡchướng ngại của tâm ngay cả được gọi là bi mẫn, bởi vì tác động của nó là những hành vi thương yêu vô chấp, phát sinh từ thực thể thanh tịnh căn bảntự nhiên thanh thoát.

Tinh khiết từ lúc khởi đầu và được ban cho với sự thanh thoát tự nhiên, tâm kim cương này là căn bản của mọi phát triển tâm linh. Ngay cả trong sự phát sinh vô số nhận thức tốt và xấu, chẳng hạn như tham dục, thù hận, và hoang mang, tâm kim cương tự nó tự do khỏi sự quấy nhiễu của những nhiễm ô này, như bầu trời trong suốt những đám mây. Nước có thể cực kỳ dơ bẩn, tuy thế bản chất của nó vẫn trong sạch. Tương tự như thế, bất chấp những cảm xúc phiền não nào được sinh ra như sự tạo tác thiện xảo của tâm kim cương này, và bất chấp chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa, căn bản của tâm tự nó duy trì không bị nhiễm ô bởi cấu uế; nó là toàn hảo mà không có bắt đầu hay kết thúc.

Những phẩm chất tâm linh kỳ diệu, chẳng hạn như từ ái và bi mẫn không bị ràng buộc, tất cả là sự hiện diện trong hình thức căn bản trong tâm kim cương này; sự biểu hiện của từ ái và bi mẫn chỉ bị ngăn ngừa bởi những điều kiện tạm thời mà thôi. Trong một ý nghĩa nào đấy, chúng ta được giác ngộ ngay từ đầu, được phú cho một tâm căn bản hoàn toàn tốt đẹp.

ĐÁNH GIÁ HOÀN CẢNH HIỆN TẠI

Bằng việc được sinh ra như một con người, chúng đã tiếp nhận một hệ thống hỗ trợ vật chất mà qua nó chúng ta có thể dễ dàng đạt được cả những mục tiêu nhất thời lẫn các mục tiêu sâu rộng hơn. Bây giờ chúng ta đã đạt được hình thể đời sống thuận lợi này rất đặc biệt trong vô số hình thể sinh ra trong thế giới này, nên thật quan trọng là [để nhớ rằng] chúng ta đừng lãng phí nó. Nếu trong hoàn cảnh này chúng ta chỉ đơn thuần thực tập để đạt được một đời sống tốt đẹp trong những đời sống tái sinh sau này cho chính chúng ta, thì chúng ta sẽ sử dụng khả năng chúng ta một cách trọn vẹn. Hay, nếu chúng ta chỉ đơn thuần hướng đến giải thoát cho chính bản thân từ những trạng thái rối rắm của khổ đau, thì điều này cũng làm thui chột khả năng vốn có của chúng ta. Với thân người, chúng ta phải nên làm bất cứ điều gì đấy mà chúng tathể đạt đến một sự phát triển tâm linh toàn hảo và trọn vẹn.

THIỀN QUÁN

1- Quán chiếu trên khả năng của tình trạng hiện tại của hành giả cho một sự tăng trưởng tâm linh: chúng ta có một thân người; những giáo huấn tâm linh thuận lợi trong môi trường; chúng ta có khả năng tinh thần để tiếp thu những giáo huấn tâm linh - chúng ta có tâm kim cương thanh tịnh thuần khiết.
2- Đánh giá những cơ hội hiện tại cho sự thực tập tâm linh.
3- Thiết lập động cơ của chúng ta, một nguyện ước để hỗ trợ không chỉ chính chúng ta mà tất cả chúng sinh.
4- Hướng đến giúp đỡ người khác.

Nguyên tác: Basic Purity of the Mind trích từ quyển How to Expand Love

Ẩn Tâm Lộ ngày 10/10/2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14306)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11844)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14363)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13278)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14645)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25261)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27893)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26366)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17235)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16527)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22143)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17137)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24914)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21970)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19069)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16174)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21727)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14669)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16708)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18780)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16617)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18015)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12928)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14948)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12713)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14607)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28038)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27204)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14349)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20970)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24189)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28692)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14737)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13293)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16461)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27254)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant