Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 1: Phật giáo thời vương triều Cấp Đa

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10460)
Tiết 1: Phật giáo thời vương triều Cấp Đa

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG XI
VƯƠNG TRIỀU CẤP ÐA 

PHẬT GIÁO SAU VƯƠNG TRIỀU NÀY

TIẾT I. PHẬT GIÁO THỜI VƯƠNG TRIỀU CẤP ÐA

Sự hưng suy của Vương triều

Vương triêu Cấp Ða được lập nên vào năm 320 sau Công nguyên, bởi vua Chiên Ðà La Cấp Da (Chánh Cần Nhật Vướng). Ðóng đô tại thành Hoa Thị, thống lĩnh cả khu vực trung Ấn Ðộ, vị vua đời thứ hai là Sa Mổ Ðà La(1), tức vua Tân Nhật, ông chính phục cả đông bộ và nam bộ Ấn Ðộ. Ðến vị vua thứ ba của vương triều này là vua Chiên Ðà La II(2), ông đem quân tấn công và xâm lược cả tây bộ và bắc bộ Ấn Ðộ, thống lĩnh cả vùng bình nguyên Ấn Ðộ và một bộ phận của Bàng Gia Phổ, gồm luôn địa vức của bán đảo Gia Ðê A Ðê Nhĩ, đây là thời đại toàn thịnh của vương triều Cấp Ða.

Nhưng mặt khác, là thế kỷ thứ V tây lịch, tộc người Bạch Hung Nô (tức tộc người Ephihal) luôn thực hiện chính sách tầm thực về phía tây bắc Ấn Ðộ, đầu tiên họ đánh chiếm nước Kiền Ðà La. Từ sau khi vua Phật Ðà Cấp Ða (Buddha - gupta) của triều Cấp Ða chết đi, thì vào năm 500 tây lịch hoặc trước đôi chút, có Thổ Lạp Ma Na (Toramàna) của tộc Bạch Hung Nô, thừa lúc triều Cấp Ða bị nội loạn bèn đánh chiếm vùng trung Ấn Ðộ. Ðây là nguyên nhân dẫn đến sự băng hoại của vương triều Cấp Ða. Và rồi người con của Thổ Lạp Ma Na là Ma Hê La Cự La (Mihirakura, 502-542 tây lịch) trở thành ông vua của vùng trung Ấn Ðộ. Cũng trong thời gian này, vua Ða Thâu Ðà Nhĩ Man (Yasùodharman) của nước Ma Lạp Bà khởi quân đánh đuổi Ma Hê La Cự La, khiến ông vua này phải bỏ vùng Trung Ấn chạy đến Ca Thấp Di La, đó là năm 528 tây lịch. Ðịa phương Trung Ấn lại được chi duệ của vương triều Cấp Ða cai quản, dù chỉ còn lại một vùng đất hẹp thuộc địa phận Ma Yết Ðà và được xem như một nước chư hầu. Ðấy là sự kế tục của vương triều Cấp Ða thời hậu kỳ(3)

Ở mạn nam Ấn Ðộ, sau khi vương triều Án Ðạt La bị diệt vong, lại có tộc người Ba La Kỳ (Pallava) chiếm cứ vùng Kiến Chí Bổ La (Kànõcipura) và lập nên vương triều Ba La Kỳ, vào năm 225-900 tây lịch.

- Bà La Môn giáo phục hưng

Nét văn hóa đặc sắc của vương triều Cấp Ða đó là chủ nghĩa phục cổ của Bà La Môn giáo. Từ thời vua Ca Nị Sắc Ca cho đến trước khi vương triều Cấp Ða bị diệt vong, trong khoảng thời gian bốn trăm năm, từ thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ năm tây lịch, trong thời gian này Ấn Ðộ không có giặc ngoại xâm, chủ nghĩa phục hưng của Bà La Môn giáo cũng dựa vào thế lực của vương triều Cấp Ða mà bộc khởi và đạt đến cực thịnh. Từ thời vua A Dục trở lui, do sự phát triển của Phật giáo đã trở thành truyền thống tín ngưỡngthâm nhập vào tầng lớp hạ lưu của xã hội, trước tình hình như vậy nên Bà La Môn giáo cũng trải qua những chỉnh lý, tu chính, và kết hợp theo thông tục tín ngưỡngthâm nhập vào tầng lớp hạ lưu của xã hội, trước tình hình như vậy nên Bà La Môn giáo cũng trải qua những chỉnh lý, tu chính, và kết hợp theo thông tục tín ngưỡng dân gian của phái Thấp Bà, là sùng bái Duy Tu Nô, tạo thành tư thái Tân Ấn Ðộ giáo (Hinduism) và khởi sự phục hưng. Tân Ấn Ðộ giáo là sự kết hợp giữa nền văn minh của dân tộc Nhã Lợi An với văn hóa của dân tộc đầu tiên đến Ấn Ðộ, nhưng khởi nguyên là từ “Bạc Già Phạn Ca” trong “Ðại Chiến Thi” của kinh Vệ Ðà. Thời ấy Phật giáo Tiểu thừa càng lúc càng biến thành tư tưởng học thuật hóa, trong khi đó nội bộ Phật giáo lại diễn ra cuộc tranh chấp ưu liệt, cao thấp về nghĩa lý, và ngày càng xa rời những sinh hoạt của dân gian về mặt tín ngưỡng mang tính đại chúng. Chưa nói là sự phục hưng của Ấn Ðộ giáo đặt cơ sở trên tín ngưỡng dân gian đã được thông tục hóa; cạnh đó các nhà Ấn Ðộ giáo họ cũng tham cứu triết lý Phật giáo để bổ sung những gì họ thiếu, nhằm cứu vãn trước nguy cơ có tính thời đại này mà Ðại thừa Phật giáo xuất hiện.

Dưới triều Cấp Ða, Phạn ngữ cổ điển (Classical Sanskrit) được phục hưng, và được coi là thứ ngữ văn có nhiều công dụng. Ðiều này liên quan đến sự phục hưng của Bà La Môn giáo; công tác dịch và viết Phật điển Ðại thừa bằng Phạn văn được hoàn thành, đại loại cũng có quan hệ đến sự phục hưng Phạn ngữ dưới thời của vương triều Cấp Ða.

Về mặt tín ngưõng, các vị vua của triều Cấp Ða đều lấy Bà La Môn giáo làm cơ sở, chẳng hạn hai vị vua là Sa Mổ Ðà La Cấp Ða, và Ca Ma la Cấp Ða Nhất thế (Kumàra- gupta), hai vị vua này cử hành lễ đại tế mã tự, dù tế lễ này từ vương triều Huân Ca đến giờ, tại trung Ấn chưa từng cử hành. Ðây là sự thực hiển nhiên. Do đó, đối với Phật giáo, vương triều này có phần lãnh đạm.

Tuy nhiên, trong những vị vua của triều Cấp Ða cũng có vị biểu thị sự hảo cảm đối với Phật giáo, hoặc có vị tôn sùng Phật giáo chứ không phải không có. Như trong “Thế Thân Truyện” chép việc vua Chánh Cần Nhật là Hương Kha La Ma A Dật Ða từng cúng dường Bồ tát Thế Thân tam lạc sa kim và vua Tân Nhật là Bà La Dật Ðê thì quy y với Bồ tát Thế Thân. Ngoài ra, ngài Thế Thân còn được người con kế nghiệp của vua Tân Nhật và vương phi của vua thỉnh mời Ngài lưu ngụ tại A Du Xà (cung điện hoàng gia). Những việc này tuy chưa biết là có bao nhiêu sự thực, nhưng ít ra cũng phản ảnh đương thời vương thất của triều Cấp Ða là có hảo cảm đối với Phật giáo.

Ở phần trước có nói đến vị tướng của tộc người Bạch Hung Nô là vua Ma Hê La Cự La bị chinh phục, và buộc phải thối lui khỏi vùng trung Ấn. Người chinh phục là vua Da Thâu Ðà Nhĩ Man của nước Ma Lạp Bà. Nhưng trong truyện ký của Huyền Trang, thì người đánh đuổi vua Hung Nô lúc ấy là vua Bà La A Ðiệt Ða Nhị thế (Bàlàdiya II) người hậu kỳ của vương triều Cấp Ða.

Trang 117, trong cuốn “Ấn Ðộ Thông Sử” của Chu Tường Quang, chép là hai vua liên hiệp với nhau để dánh đuổi, đồng thời mở lối thoát cho vua Hung Nô, có thể là phóng thích sau khi bắt được. Ðể kỷ niệm cuộc chinh chiến thắng lợi, vua Bà La A Ðiệt Ða bèn kiến tạo một ngôi đại Phật tự - đó là chùa Na Lan Ðà rất nổi tiếng.

- Giáo nạn tại bắc Ấn Ðộ.

Vua Ma Hê La Cự La từ phương bắc xâm lược vào bắc bộ Ấn Ðộ; ông nhìn Phật giáo bằng con mắt cực đoan ghen ghét, và chỉ muốn hủy diệt Phật giáo, nên khi thế lực đủ mạnh, ông bèn lăng nhục Phật giáo bằng cách tàn sát. Có thuyết nói là sau khi ông được tha cho về lại bắc Ấn Ðộ, tức lãnh địa Ca Thấp Di La; tại đây ông ra sức hủy diệt chùa, tháp đạt đến con số 1600 ngôi. Cuốn “Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện(4) kể rằng, lúc bấy giờ có vị Tỳ kheo được người đời xưng tụngSư Tử đang làm Phật sự tại Kế Tân (tức Ca Thấp Di La) thì bị “Di La Quật” sát hại, pháp thống nhân đấy mà dứt. Di La Quật là lối dịch khác của Ma Hê La Cự La, có nơi lại dịch là Mật Hy Ha La (Mihirkula). Nhân sự kiện này, về sau các sử gia thường lấy vua Ma Hê La Cự La sánh với vua Bổ Sa Mật Ða La của vương triều Huân Ca.

- Chùa Na Lan Ðà.

Theo “Ðại Ðường Tây Vực Ký”, quyển chín của Huyền Trang, thì chùa Na Lan Ðà tính đến khi kiến tạo phần tiên khởi xong “cách sau Phật Niết bàn không lâu, vị tiên vương của nước này là vua Thước Ca La A Dật Ða (tiếng nhà Ðường gọi là Ðế Nhật) là người kính trọng nhất thừa, tôn sùng Tam Bảo, tìm nơi phúc địa để kiến tạo ngôi Già lam này”. Và qua các đời vua kế tiếp như vua Phật Ðà Cúc Ða Hán dịch là Giác Hộ), vua Ðát Tha Yết Ða Cúc Ða (Hán dịch là Như Lai), vua Bà La A Ðiệt Ða (Hán dịch là Huyễn Nhật), vua Phạt Xà Ca (hán dịch là Kim Cang) thay nhau xây dựng thêm cho đến vị vua thứ sáu là vua Giới Nhật mới thật sự hoàn thành. Nhưng dưới thời của triều Cấp Ða, ngoài vua Bà La A Ðiệt Ða của thời hậu kỳ chứ không phải là vị vua nào khác tham gia kiến tạo chùa Na Lan Ðà, vì vua Giới Nhật là người của vương triều Phạt Ðàn Na (tức Giới Nhật vương triều). Theo truyền thuyết của Tây Tạng, thì ngài Vô Trước, ngài Thế Thân cũng từng lưu trú tại chùa Na Lan Ðà để hoằng thông đại pháp. Nhưng kinh sách Hán dịch chưa nghe nói đến sự việc này. Ngay như những ghi chép về cuộc Ấn du của Pháp HiểnTrí Mãnh, cũng không thấy đề cập gì đến tên chùa Na Lan Ðà.

Căn cứ sự khảo sát từ nhiều phía, thì ghi chép của Huyền Trang cho rằng “Sau Phật Niết bàn chẳng bao lâu” thì chùa Na Lan Ðà được khởi tạo, điều này thiếu xác thực. Có thuyết cho rằng chùa Na Lan Ðà do vua Huyễn Nhật thuộc hậu kỳ của vương triều Cấp Ða sáng lập. Sau khi cân nhắc, thuyết này có thể tin được. Theo tư liệu được tìm thấy, thì vị danh đức trú trì chùa Na Lan Ðà đầu tiên là ngài Ðức Huệ hoặc ngài Hộ Pháp, ngài Hộ Pháp sống vào khoảng từ năm 530 đến năm 561. Thời gian này rơi vào thời hậu kỳ của triều Cấp Ða. Từ năm 535 đến năm 730 tây lịch.

Thực ra, thì gốc gác của nền chùa Na Lan Ðà là ngôi vườn Ám Ma La có từ thời đức Phật còn tại thế, và đức Phật cũng đã từng ở nơi này thruyết pháp trong thời gian ba tháng. Trước và sau khi Huyền Trang đến Ấn Ðộ, đúng vào thời vua Giới Nhật đang trị vì. Thời ấy chùa Na Lan Ðà có hơn hai trăm thực ấp. Lúa gạo và tô lạc mỗi ngày dùng đến cả trăm thạch. Chùa có đến chín ngôi (công trình phụ), tọa lạc lên trên khu đất rộng bốn mươi tám nghìn mét vuông, tăng chúng thường trú đến một vạn người. Ngôi đại tự này của đất nước Ấn Ðộ đã khiến nhiều quốc gia phải ngưỡng mộ và nghiễm nhiên ngôi đại tự này trở thành học phủ tối cao, và duy nhất có một của Phật giáo.

Bảng danh sách liệt kê chư vị đại sư trú trì chùa Na Lan Ðà có những vị sau: Ðức Huệ, Hộ Pháp, Hộ Nguyệt, Kiên Nguyệt, Quang Hữu, Thắng Hữu, Trí Nguyệt, Giới Hiền, Trí Quang, Nguyệt Xứng và các luận sư như Ðạt Ma Cúc Ða v.v... Huyền Trang tam tạng là người Trung Hoa đầu tiên lưu học tại chùa Na Lan Ðà. Ðồng thời Huyền Trang đại chấn thanh danh cũng tại chùa này, những vị sư tăng người Trung Hoa nối tiếp Huyền Trang lưu học tại chùa Na Lan Ðà có: Nghĩa Tịnh, Ðạo Lâm, Huyền Chiếu, Ðạo Sanh, An Ðạo, Trí Hoằng, Ðạo Hy, và Vô Hành. Những tăng nhân người Ấn Ðộ từng đến Trung Hoa hoằng phápBa La Phã Ca La Mật Ða La, Ðịa Bà Ha La, Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí, Bát Lạt Nhã v.v... những vị này cũng từng cầu học tại chùa Na Lan Ðà.

Những vị danh đức trú trì, đầu tiên họ biến chùa Na Lan Ðà thành học phủ thịnh hành, của Duy thức học phái, và sau đó họ khiến chùa Na Lan Ðà thành học phủ của Ðại thừa Mật giáo.

- Tình hình chung của Phật giáo.

Cao Tăng truyện quyển ba, phần viết về “Pháp Hiển Truyện”(5) có chép về tình hình Phật giáo tại Ấn Ðộ thời bấy giờ, rằng cả Tiểu thừa và Ðại thừa đều thịnh hành (Pháp Hiển đi Tây vức vào đời Ðông Tấn, triều vua An Ðế, năm Long An thứ ba, đến năm Nghĩa Hy thứ mười thì trở về lại kinh đô Thẩm Dương tức từ năm 399 đến năm 416 tây lịch).

Tại bắc bộ Ấn Ðộ có bảy nước, chép rõ là có hai nước học Tiểu thừa, một nước học thì phần lớn học Tiểu thừa, một nước học cả Tiểu và Ðại thừa. Như vậy cá nước tại bắc Ấn Ðộ Tiểu thừa chiếm ưu thế.

Tại trung Ấn Ðộ có mười hai quốc gia và khu thành, ghi rõ là một nước học theo Tiểu thừa, một nước đa số học Tiểu thừa, một nước học cả về Ðại thừa và Tiểu thừa, có thể cho là Ðại thừa có vẻ lấn hơn.

Pháp Hiển đến Ấn Ðộ và lưu học Phật pháp tại thành Hoa Thị, thành này ở đông Ấn Ðộ. Những Thánh điển ông học được gồm: Tát Bà Ða Chúng Luật, Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận, Ðản Kinh, Phương Ðẳng Bát Nê Hoàn Kinh, Ma Ha Tăng Kỳ A Tỳ Ðàm v.v... Như vậy, có thể thấy đương thời tại đông Ấn Ðộ cả Ðại thừa và Tiểu thừa đều song hành.

Theo phân tích của pháp sư Ấn Thuận về tình hình chung của Phật giáo thời ấy như sau:

1. Thời Vô Trước, Thế Thân, từ nam Kiền Ðà La chạy đến A Du Ðà (A Thâu Ðà) lấy nơi đây làm trung tâm; dọc theo biển phía tây đổ xuống bờ nam cùng tiếp xúc với học giả nam Ấn Ðộ. Ðấy là hệ học giả Duy thức hướng hoạt động của họ về nam Ấn Ðộ.

2. Phía đông của Ma Kiệt Ðà, theo những gì mắt thấy tai nghe của Pháp HiểnTrí Mãnh, thì Phật giáo ở thành Hoa Thị, các học giả Ðại thừa phải dựa vào Bà La Môn giáo để đứng vững.

3. Cuối biển phái nam đến nước Sư Tử (Tích Lan), thì Ðại thừa và Thượng Tọa Bộ, cả hai cùng hoằng hóa ở khu vực này.

4. Thời ấy các học giả Ấn Ðộ đến Trung Hoa, như Ðàm Vô Sấm, Cầu Na Bạt Ma, đa phần các kinh, luận do họ dịch ra Hán văn đều có liên hệ đến việc giới thiệu Chân thường duy tâm luận. Căn do của Chân thường Ðại thừa, ấy là lấy từ “Tâm tánh bản Tịnh” của Ðại Chúng Bộ và của hệ Phân Biệt Thuyết dung hợp với “bất tức bất ly uẩn ngã” của hệ Ðộc tử mà thành “Chơn thường ngã”(6).

 

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17296)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46370)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9566)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8747)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15786)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15412)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18203)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9611)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18372)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15593)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10884)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8877)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10387)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10164)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9336)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11429)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10043)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 22912)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9563)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17209)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16612)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 18962)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10133)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19364)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9419)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12254)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 11940)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19703)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12663)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13085)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14304)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32323)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12935)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11917)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20721)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40594)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10055)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9540)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 18957)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8804)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8301)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10433)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11661)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30604)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11460)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10418)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 15979)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25563)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10007)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant