Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Bộ phái Phật giáoĐại Thiên

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10325)
Tiết 2: Bộ phái Phật giáo và Đại Thiên

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG IV

A DỤC VƯƠNG VÀ ÐẠI THIÊN

TIẾT II. BỘ PHÁI PHẬT GIÁO VÀ ÐẠI THIÊN

- Sao gọi là Bộ Phái?

Danh từ Bộ phái ở đây không như danh từ Tông phái của Trung Quốc vậy. Nguyên nhân là do cố thủ quan điểm luận mà xảy ra bất đồng nên có sự phân lập riêng biệt. Sự phân lập này dẫn đến những tính cách tương đồng, tương dị rất thú vị, ấy là tự nhiên mà hình tành nên đạo nghĩa kết hợp, hoặc đối lập. Từ đấy mà Bộ phái Phật Giáo thành hình. Ðiều đó diễn ra sau Phật nhập diệt khoảng trăm năm. Thực thì nguyên nhân xa của phân phái cũng đã xảy ra khi đức Phật còn tại thế. Ðiều đó được chép rõ trong kinh Tạp A Hàm quyển mười sáu. Kinh 447(11) đơn cử mười ba vị đại đệ tử của đức Phật. Nhưng vị này mỗi người đều có nhiều Tỳ kheo thân cận kinh hành. Những Thượng tọa nghe nhiều, thường thân cận ngài A Nhã Kiều Trần Như, những Tỳ kheo tịnh tu khổ hạnh đầu đà thường thân cận ngài Ðại Ca Diếp; những vị đại trí biện tài, thường thân cận ngài Xá Lợi Phất; những vị có sức mạnh thần thông, thường thân cận ngài Mục Kiền Liên, những vì có thiên nhãn minh triết, thường thân cận ngài A Na Luật, những vị tinh tấn dũng mãnh, thường thân cận ngài Nhị Thập Ức Nhĩ (Scronakotivimsa), những vị vì đại chúng mà tu sửa cúng cụ, thường thân cận ngài Ða Phiêu, những vị hành trì thông đạt Luật nghi, thường thân cận ngài Phú Lâu Na, những vị đa văn tổng trì, thường thân cận ngài A Nan, những vị giỏi phân biệt các kinh, khéo thuyết giảng pháp tướng, thường thân cận ngài Ca Chiên Diên, những vị mật hạnh nghiêm cẩn hành trì giới luật, thường thân cận ngài La Hầu La, những vị thường tụ tập tăng chúng để nói và làm những điều sai quấy, thường thân cận ngài Ðề Bà Ðạt Ða. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 46, (Phóng Ngưu Phẩm) kinh thứ ba, phẩm 49(11) cũng nói: “Nên biết căn nguyên của chúng sinh đều là “tự tương loại”, những kẻ ác hành thường theo với nhau; những người thiện hạnh cũng thế”. Chỉ có điều, lúc đức Phật còn tại thế, cửa với nhà chưa bị đứng riêng. Ðến lần tập kết thứ nhất, mới bắt đầu thấy cửa là cửa, nhà là nhà; và sau lần Thất Bách kết tập mới lộ rõ việc phần thành hai Bộ. Mãi đến thời vua A Dục, và sau đó Ðại Chúng Bộ một lần nữa bị chia cắt. Sự chia cắt lần này về mặt niên đại, thì tư liệu của Nam truyền và Bắc truyền sai khác nhau cả trăm năm. Ðại Chúng Bộ tuy bị chia cắt, nhưng lại tương đồng, nhưng thuyết về sự khởi tranh của tặc trú Tỳ kheo là giống nhau, trong đó có liên quan đến sự kiện Ðại Thiên.

- Hai vị Ðại Thiên.

Ðại Thiên tên tiếng Phạn là Ma Ha Ðề Bà (Mahàdeva). Sự tích nói về Ðại Thiên, xin đọc “Dị Bộ Tông Luận”, “Thập Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, tất cả các bộ nêu trên đều nói đến sự việc sau Phật diệt dộ hai trăm năm, có ngoại đạo tên là Ðại Thiên xin xuất gia với Ðại Chúng Bộ. Người này sống ở núi Chi Ðề (Caityagiri), còn có tên là núi Chế Ða. Trong bộ Ma Ha Tăng Kỳ, ông lại là người kiến lập thêm ba Bộ nữa. Lại nữa, Ðại Ðường Tây Vực Ký, quyển ba(12) chép: Sau Phật diệt độ khoảng trăm năm, có xuất hiện nhân vật tên Ðại Thiên, ông là người khoát đạt đa trí, ngẫm muốn có thực danh, nên suy nghĩ sâu xasáng tác luận nghĩa trái nghịch với Thánh giáo, khiến vua Vô Ưu (tức vua A Dục) không rõ đâu là phàm, đâu là thánh, nên đồng tình với luận điểm của Ðại Thiên, cho Ðại Thiên được thân cận, nương cậy ông; đồng thời vua A Dục lại có ý muốn giết các Thượng tọa thánh tăng. Thánh Tăng là những vị đã đắc quả A la hán nên quí ngài nhận biết ý sát của vua A Dục, bèn vận dụng thần thông đi đến nước Ca Tháp Di La. Cạnh dó luận Ðại Tỳ Ba Sa - quyển 99 của Hữu Bộ(13), còn công kích Ðại Thiên dữ dội hơn, cho rằng Ðại Thiên là người dâm dục với mẹ đẻ, giết A la hán, rồi giết luôn mẹ đẻ; và ông phạm cả ba tội Vô gián. Ðồng thời luận này còn chỉ trích Ðại Thiên là người gây ra cuộc tranh cãi “Ngũ Sự” đầy vọng ngôn.

Tất cả các việc nêu trên đều xuất phát từ truyền thuyết của Thượng Tọa Bộ; sự thực không hẳn như vậy, bởi hai người cùng có tên Ðại Thiên cách xa nhau cả trăm năm. Tiếc là về sử liệu, Ðại Chúng Bộ không còn lưu lại điều gì để có thể dựa vào tham khảo. Quả như các việc trên là thực, thì người có tên là Ðại Thiên đã phạm ba ba tội Vô gián, và đời sau gọi ông là Ðại Thiên ngoại đạo xin xuất gia với Ðại Chúng Bộ. Nhưng cả Hữu Bộ và Ðại Chúng Bộ lại đứng trên lập trường lưỡng cước khi nói về Ðại Thiên. Do đó, đối với việc Ðại Thiên phạm ba tội Vô gián chỉ là vu khống. Trên thực tế, thời đại đương thời Ðại Thiên là người đi trước về tư tưởng tiến bộ. Tuy ông bị các vị Kỳ túc Thượng tọa công kích, nhưng ông được đa số đại chúng ủng hộ. Lúc con vua A Dục là Ma Sẩn Ðà xuất gia, ông này thỉnh ngài Ðế Tu của hệ Phân Biệt Thuyết làm Hòa thượng, mời ngài Mạt Lan Ðề của Hữu Bộ làm cụ túc giới A Xà Lê, và ngài Ðại Thiên của Ðại Chúng Bộ làm thập giới A Xà Lê(14). Như thế đủ thấy vua A Dục không thiên vị bên nào, và Ðại Thiên cũng không phạm ba tội Vô Gián như truyền thuyết của Hữu Bộ. Lại càng không đúng với truyền thuyết nói rằng: Vào thời vua A Dục, Phật pháp long thịnh và tứ sự cúng dường rất nồng hậu. Do đó, đa số ngoại đạo vì miếng ăn cái mặc mà xin xuất gia theo Phật Giáo, nên gọi số này là “tặc tu”. Ðồng thời họ cũng khởi sự phân tranh khiến vua A Dục phải triệu tập chúng lại để kiểm nghiệm. Trong số đó có ba trăm người thuộc loại ngoại đạo thông minh. Họ thông đạt cả Tam tạng thánh điển, nên không còn cách nào khác, vua A Dục đành cho họ ở riêng một trú xứ, trong số này có một vị tên là Ðại Thiên, sống ở núi Chế Ða. Ông này lại cùng với Ðại Chúng Bộ nghị luận Ngũ Sự. Nhân đây Ðại Chúng Bộ bị chia thành ba Bộ.

Tất cả chỉ là truyền thuyết nên rất khó phân biệt được chân, ngụy. Nhưng ngày nay chúng ta có thể xác tín rằng; Ðại Thiên không phải là tặc trú Tỳ kheo, cũng không phải ông bị vua A Dục là Ma Sẩn Ðà thỉnh mời làm A Xà Lê(14). Trước đó ông cũng đã theo tăng chúng đến tu ở núi Chế Ða. Ông cũng từng phụng mệnh vua A Dục đi đến Ma Ê Bà Mạt Ðà La (nay là Mại Sách Nhĩ), và ông cũng đã cùng các vị như Mạt Lan Ðề cả thảy tám vị đại đức được phái đến các địa phương để hoằng hóa Phật pháp. Như vậy, ông không phải là người trái nghịch thánh giáo.

- Ðại Thiên Ngũ Sự.

Ðại Thiên Ngũ Sự là trọng điểm mà Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ công khai tranh luận một cách quyết liệt. Ngay vào thời vua A Dục nó được tranh luận một cách minh xác. Ðại khái, Ðại Thiên là nhân vật ra đời sau Phật nhập diệt khoảng từ trăm năm đến hai trăm năm, thì xảy ra chuyện Ðại Chúng Bộ tôn trọng “Ngũ Sự”. Do vì Ngũ Sựliên quan đến Ðại Thiên, nhưng không hẳn Ðại Thiên là chủ sự. Nhân vấn đề tranh luận “Ðại Thiên Ngũ Sự” rồi cho rằng Ðại Thiên xuất hiện sau Phật nhập diệt hai trăm năm. Thiết tưởng điều trên chỉ là truyền nhầm.

- Sao gọi là Ðại Thiên Ngũ Sự?

Ðó là năm việc liên quan đến thánh cảnh của thân tâm A la hán. Luận Ðại Tỳ Bà Sa quyển 99(15) của Hữu Bộ nói: “Ðại Thiên tự mình chưa chứng quả A la hán, nhưng nói là mình đã chứng A la hán quả. A la hán là người đã ly dục, nhưng Ðại Thiên đêm ngủ vẫn còn bị mộng tinh, đệ tử được ông ký biệt là đã chứng quả, nhưng bản thân đệ tử chưa từng tự biết chứng quả gì, nên vẫn cứ nghi hoặc Lý đán, A la hán và vị luôn sống an vui giải thoát, nhưng Ðại Thiên khi đêm đến thường hô lớn khổ quá, khổ quá. Ðem năm việc trên ra lượng định, biết là Ðại Thiên vọng ngôn”.

Theo Hữu Bộ, thì năm việc ấy là:

1. Ðại Thiên vì tư duy bất chính nên mới thoát thất bất tịnh (mộng tinh).

2. Ðại Thiên vì muốn nâng đỡ đệ tử mình mà loạn tác ký biệt, nói là đệ tử đã chứng bốn thánh quả Sa Môn.

3. La hán là người đã chứng đắc vô lậu, dứt đoạn tất cả mọi nghi hoặc. Vậy sao lại nói quả vị La Hán còn nghi hoặc?

4. La hán là người đã chứng đắc thánh huệ; tại sao lại nói tự mình không biết là đã chứng quả La hán hay chưa?

5. Thánh đạo vô lâu, vậy lý đáng phải y vào gia hạnh vịhiển hiện, sao lai còn than khổ quá, khổ quá, như thế làm sao sinh khởi được nhân của thánh đạo giải thoát? Như vậy đủ thấy những điều vừa nêu nói lên sự vọng ngữ của Ðại Thiên.

Ðã vậy, Ðại Thiên còn đem ngũ sự do ông xướng xuất biên thành một bài, và hướng về chúng đệ tử tuyên dương một cách sâu rộng: “Dư sở dục, vô tri, do dự tha linh nhập, đạo nhân thinh cố khởi, Thị danh chơn Phật Giáo”.

- Ngũ sự không là vọng ngôn.

- Lý do việc được Ðại Thiên đề ra Ngũ Sự:

1. “Dự sở dụ”, bậc A la hán tuy không còn bị phiền não về dâm dục, nhưng vẫn bị “lậu thất bất tịnh”, tức có ác ma lấy vật bất tịnh định đặt vào y của La hán.

2. “Vô Tri”, vô tri là không biết có nhiễm ô và không nhiễm ô. Bậc La hán mà chưa đoạn tận được bất nhiễm ô, thì đó là vô tri.

3. “Do dự”, nghi có hai thứ là xứ và phi xứ sẽ trình bày riêng. Bậc La hán chưa đoạn tận (dứt sạch) được nghi hoặc về xứ và phi xứ, thì tuy là bậc thánh Ðộc giác nhưng vẫn có cái “hoặc” này.

4. “Tha linh nhập”, bậc La hán cũng phải dựa vào ký biệt của người khác, mới biết được mình là La hán, chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất là người có trí tuệ bậc nhất, ngài Mục Kiền Liênthần thông bậc nhất, nhưng cũng phải dựa vào sự thọ ký của đức Phật mới biết được mình đã giải thoát.

5. “Ðạo nhân thinh cố khởi”, chí thành xướng niệm khổ quá, thì thánh đạo mới hiện khởi, “khổ” được nói ở đây với”khổ” trong tứ thánh đếliên quan với nhau. Quán khổ, không, vô thường, vô ngã, thì đó là thánh đạo.

Về bản chất của “Ngũ Sự” mà nói, thì ngũ sự khó mà luận rằng đó là vọng ngôn để có thể loại bỏ. Bởi khi nói La hán là bậc ly dục, đó là nói về tâm lý. Nhưng về mặt sinh lý chưa hẳn là khác với người phàm, huống nữa là vấn đề di thất bất tịnh. Vì có lúc là mộng di, có lúc không mộng vẫn cứ “di” ; hoặc có vị do thân bệnh mà “di”. Việc di tinh của người nam giống như chuyện nguyệt tín của người nữ mà thôi.

Thời Phật tại thế có vị nam La hán nhân mắc bệnh phong khiến “dương cử”, phải tìm đến dâm nữ giải quyết (trị bệnh). Cũng có vị La hán ni vẫn còn nguyệt tín nên phải đến hồ nước dùng vải bố mà rửa. Nếu căn cứ theo giới luật nguyên thỉ để suy luận, thì năm việc được Ðại Thiên đưa ra, không có việc nào là không lập thành. Chi do các vị luận sư của Hữu bộ không nghiên cứu một cách thực tế nên sinh ra việc lấy người bỏ lời (dĩ nhân phế ngôn). Chuộng cái giống mình, công kích cái khác mình, và như vậy mà kết luận Ngũ Sựvọng ngôn e không mấy thuyết phục.

Vả lại, “Ðại Thiên Ngũ Sự” cũng không hẳn là do Ðại Thiên sáng tác một cách độc lập, trong bộ “Luận Sư” của Nam truyền(16) cũng có truyền về Ngũ Sự. Trong luận thuyết của ngài Tam Tạng Chơn Ðế của Bắc truyền và của Tây Tạng cũng có nói đến Ngũ Sự, nhưng chú thích không giống nhau. Thời gian gần đây các nhà học giả thấy rằng Ngũ Sự nói chung, các bộ thuộc Ðại Chúng Bộ đều có nói đến; Ðại Thiên chẳng qua chỉ là người đem Ngũ Sự kết tập lại thành một loại, rồi dùng kệ tụng để trình bày.

Nghiên cứu kỹ, thì quả vị La hán quả đúng là người phi thường mới có thể vượt qua (chứng đắc). Nhưng đời sau lấy cảnh giới lý tưởng của La hán biến thành vấn đề cao siêu không dễ gì mong đạt tới được; tương tự như việc dương cao Bộ phái trong lúc hình thành, thẩm sát các vị La hán thời Phật tại thế, chưa hẳn quí ngài đạt đến trình độ cao siêu như vậy.


(1) Ðại Chánh tạng-27, cuối trang 511.

(2) Sắc dụ, sắc lệnh.

(3) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 684.

(4) Ðại Chánh tạng-24, cuối trang 684 đến đầu trang 685.

(5) “Ấn Ðộ Phật Giáo”, chương 5, tiết 3, trang 95.

(6) “Ấn Ðộ Phật Giáo”, chương 5, tiết 3, trang 95.

(7) ) “Thập Bát Bộ Luận”, Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 18, thì cho là một trăm mười sáu năm; “Thiện Kiến Luận” quyển I - Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 678.

(8) “Thập Bát Bộ Luận”, Ðại Chánh Tạng-49, đầu trang 18, thì cho là một ttrăm mười sáu năm; “Thiện Kiến Luận” quyển I-Ðại Chánh Tạng-24, giữa trang 678.

(9) Ðại Chánh Tạng-51, giữa trang 886.

(10) Ðại Chánh Tạng-51, trang 886

(11) Ðại Chánh Tạng-2, đầu trang 115 đến giữa trang 115.

(11) Ðại Chánh Tạng-2, đầu trang 796.

(12) Ðại Chánh Tạng-51, giữa trang 886.

(13) Ðại Chánh Tạng-27, giữa trang 510 đến giữa trang 511.

(14) Luật Thiên Kiến - quyển 2, Ðại Chánh Tạng-24, đầu trang 682.

(14) A Xà Lê có nghĩa là Quĩ phạm sư - người thầy mẫu mực khuôn phép.

(15) Ðại Chánh Tạng-27, từ giữa trang đến cuối trang 511.

(16) Nam truyền Ðại Chánh tạng Kinh quyển 57, từ trang 221-258.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17442)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9628)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8822)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18354)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9662)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9726)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18517)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15722)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10994)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8987)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10488)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10253)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9411)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11572)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10141)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23083)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9631)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17300)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16716)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19147)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10233)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19466)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9490)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12336)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 12033)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19887)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12746)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13177)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14441)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32456)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13103)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12008)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20948)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40691)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10133)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9602)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19033)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8895)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8381)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10510)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11735)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30712)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11563)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10504)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16127)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25747)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10078)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant