Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời giới thiệu

06 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 15342)
Lời giới thiệu

GIỚI THIỆU

Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới. Như đã được tiên tri trong Lankavatara Sutra (Kinh Lăng Già), Manjushrimu-lakalpa Tantra, cũng như trong vài thuyết pháp khác của Phật, Acarya Nagarjuna cách mạng sự giải thích giáo lý của bậc Giác Ngộ vào thời đại mình và đóng góp cho nó một sức sống và sự năng động tiếp tục giữ gìn nó thậm chí đến ngày hôm nay trong những vị hiến mình phụng sự Đại thừa. Cuộc cách mạng mà Acarya Nagarjuna hoàn thành trong dòng chảy Phật giáo không phải, như một số người có thể nghĩ, là một bước khởi đi căn bản khỏi giáo lý nguyên thủy của Phật Thích Ca. Trái lại, những người theo học phái Trung Đạo (Madhyamaka) đã chứng tỏ rằng sự giải thích của họ tiêu biểu cho nội dung đích thực của giáo lý của Phật và tinh túy của Phật giáo. Dù mục tiêu của chúng tôi ở đây không phải là dẫn chứng cho điều này, có thể đơn giản nói rằng chân lý của nó không thoát khỏi sự nhận xét của những học giả thẩm quyền trong lãnh vực này.

Khi biết sự uy nghi của tên tuổivai trò quan trọng của Bồ tát Long Thọ trong sự phát triển của tư tưởng Phật giáo, thật không có gì ngạc nhiên khi câu chuyện cuộc đời ngài dính dáng đến những truyền thuyết và huyền thoại. Những người viết tiểu sử ngài đã gồm vào đó những yếu tố, dù chắc hẳn là những sự kiện của lịch sử tôn giáo, cũng khó mà xác minh sự thật của chúng. Chắc chắn là một tiểu sử bằng Anh ngữ của Bồ tát Long Thọ được dịch từ nhiều bản tiểu sử của ngài lưu hành trong ngôn ngữ Tây Tạng là điều đáng ao ước, đó là một công việc không nhỏ. Do đó vì mục đích giới thiệu tác phẩm này chúng tôi tự giới hạn trong một tóm tắt cuộc đời của ngài căn cứ trên những sự việc có thể xác minh với sự chắc chắn tương đối, rút từ những tiểu sử truyền thống trong chừng mực những sự kiện đó không mâu thuẫn nhau.

Bồ tát Long Thọ sống trong khoảng một phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ nhất và một phần tư đầu của thế kỷ thứ hai. Điều này là rõ ràng từ tình bạn với một nhà vua của dòng họ Satavahana của Andhra. Nhà vua, Gautamiputra Satakarni, con của hoàng hậu Bala Sri, là người độc nhất của dòng họ theo Phật giáo và chính vì ông mà Bồ tát Long Thọ viết Suhrïllekha và Ratnavali. Những nhà viết tiểu sử truyền thống đồng ý rằng ngài Long Thọ sanh ra trong một gia đình bà la môn ở Nam Ấn. Những bản tiểu sử Tây Tạng nói rằng khi mới sanh, các nhà chiêm tinh tiên đoán đứa trẻ sẽ sống không quá bảy tuổi. Không thể chịu nổi viễn cảnh ấy, cha mẹ nó gởi đứa bé đến một tu viện Phật giáo, nơi đó bằng cách đọc tụng Aparimitayuddharani, nó thành công thoát khỏi số mệnh. Bản tiểu sử của Cưu Ma La Thập về thời trẻ của Bồ tát Long Thọ khác một cách căn bản với những bản Tây Tạng. Nó được đề cập ở đây chỉ vì nó được xem là sớm hơn các bản Tây Tạng, và như vậy đáng được lưu ý. Cưu Ma La Thập viết rằng thời trẻ ngài Long Thọ bị dục vọng cám dỗ và nhờ nghệ thuật tàng hình đã quyến rũ những phụ nữ trong cung điện vua. Nhưng một lần, ngài suýt chết dưới bàn tay của những người canh gác, một kinh nghiệm dẫn ngài tin vào lời dạy của đức Phật rằng tham muốnnguyên nhân lớn nhất của khổ. Kết quả là ngài vào Tăng đoàn, theo lời kể của Cưu Ma La Thập. Sau đó, theo tài liệu Tây Tạng, Long Thọ trở thành một học trò của Rahulabhadra (cũng còn được biết với tên Mahasiddha Saraha), bấy giờ là Trụ trì đại học ở Nalanda.

Gần như mọi nhà tiểu sử truyền thống đồng ý rằng Acarya Nagarjuna lấy những Kinh Bát Nhã Ba La Mật từ loài Rồng (Naga). Dù một số gợi ý rằng từ này thường được dùng để chỉ một nhóm các đại yogi, ý nghĩa chính xác của chữ này vẫn không chắc chắn. Cuối cùng, ngài Long Thọ hình như để phần cuối đời ở trong tu viện do người bạn và thí chủ là Vua Gauta-miputra ở Sri Parvata xây cho. Dù những chuyện kể nói về cái chết của ngài có khác nhau về chi tiết, chúng đồng ý rằng Long Thọ bằng lòng với cái chết của mình trong tay con của vua Gautamiputra.

Acarya Nagarjuna là một đạo sư thành tựu của Phật giáo. Ngài viết nhiều về hầu hết mọi khía cạnh của triết họctôn giáo Phật giáo. Dù ngài Long Thọ được đông đảo xem là người tiên phong số một của “trung đạo”, hay Madhyamapratipad, và như một vị thầy của biện chứng, những tác phẩm của ngài cũng gồm những công trình về Luật, về Tantra, về Bồ tát hạnh, và về thực hành Thừa Ba la Mật (Paramitayana). Trong loại sau gồm có bình giảng về Dasabhumikasutra (Kinh Thập Địa), Sutrasamuccaya và những cái khác. Ngài Long Thọ còn viết những tác phẩmtính chất sùng mộ cao, như Catuhstava. Đáng tiếc là quá ít những tác phẩm như vậy của ngài được dịch sang tiếng Anh. Hy vọng rằng những năm tới tình trạng này sẽ được cải thiệntác phẩm nhỏ này sẽ đóng góp một phần nhỏ cho tiến trình ấy.

Suhrïllekha của Acarya Nagarjuna là một tóm tắt khúc chiết và dễ hiểu về giáo lý Phật giáo. Nói chung nó có thể cho là thuộc về loại bản văn mà sau này được gọi ở Tây Tạng là những bản văn của con đường tiệm tiến hay lam-rim. Những tác phẩm của Long Thọ, đặc biệt là Sutrasamuccaya nhưng cũng ở một cấp độ kém hơn là Suhrïllekha, là những cái đi trước của vô số bản văn có thể được xếp loại dưới tên lam-rim. Chúng bao gồm những tác phẩm như Siksasamuccaya của Shanti-deva, Trang Hoàng Ngọc Báu của Giải Thoát của Sgam-po-pa và Minh Giải Tư Tưởng của Bậc Trí của Sakya Pandita Kunga. Gyaltsen. Pal. Zangpo. Không ngạc nhiên rằng phong cách khúc chiết và nội dung dễ hiểu của một tác phẩm như Suhrïllekha của Long Thọ làm cho nó phổ thông như một phương tiện chuyên chở vắn tắt giáo lý Phật giáo. Suhrïllekha được phổ thông như vậy ở Ấn Độ được nói rõ trong lời kể của nhà hành hương Trung Hoa Nghĩa Tịnh đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ bảy, ngài viết, “Ở Ấn những học trò học bản văn này bằng kệ rất sớm, nhưng những người sùng tín nhất xem nó là đối tượng đặc biệt để nghiên cứu trọn đời”. Ngày nay Suhrïllekha cũng được phổ biến rộng trong người Tây Tạng, họ dùng nó với sự đều đặn như một cẩm nang căn bản cho việc dạy Phật pháp. Bởi thế hy vọng rằng bản dịch Anh ngữ này sẽ hữu dụng cho những người muốn có được một hiểu biết căn bản về Phật giáo. Tính chất dễ hiểu của nó, dù ngắn, cũng làm cho nó rất thích hợp để dùng như một dẫn nhập vào toàn bộ Phật giáo. Vì nó chủ yếu viết cho người tại gia, một bức thư của ngài Long Thọ gởi tới vua Satavahana như một người bạn lâu năm, những lời dạy bao gồm trong đó có thể được một số đông rộng rãi độc giả hâm mộ với những thích thú khác nhau. Dù cho những học giả và những nhà hàn lâm muốn tìm sự minh giải một số điểm khó hiểu trong giáo lý Trung Đạo có thể ít thỏa mãn trong Suhrïllekha, những ai muốn có một cẩm nang khúc chiết và dễ hiểu về giáo thuyết và thực hành Phật giáo chắc chắn sẽ không thất vọng.

Dù Suhrïllekha chứa đựng những yếu tố thuộc về Đại thừa, nhiều phần nó gồm một nền tảng chung cho cả Tiểu thừaĐại thừa. Bức thư bắt đầu với một cầu nguyện để trau dồi lòng tin vào cái tối tôn, như Phật, Pháp và Tăng. Rồi tiếp theo một tóm tắt dài về những quy tắc đạo đứctôn giáo, mà nếu làm theo, sẽ có kết quả là sanh vào những cõi may mắn của người và chư thiên, như Acarya Nagarjuna viết, “…giới luật được nói là nền tảng của mọi đức hạnh, công đức, như đất là chỗ nương tựa của những vật sống và những vật vô tri”. Những yêu cầu và cấm đoán được nêu ra trong bản văn đều đi kèm với những thực hành được dùng để đối nghịch lại với những xu hướng không đức hạnh. Như ngài Long Thọ viết trong câu kệ thứ bốn mươi, “Hãy luôn luôn thiền định đúng đắn về từ, bi, hỷ, xả…” Cũng bằng một tầm quan trọng như vậy là phần để xóa bỏ những quan điểm sai lầm do vô minh gây ra, vì đạo đức được thực hành trong vô minh thì không đưa đến kết quả giải thoát. Tuy nhiên, qua sự phối hợp của giới luậttrí huệ (sự thấu hiểu tánh không) giải thoát mới đạt được. Tánh không này, Chân Lý Tối Hậu, được phát hiện nhờ xóa bỏ những quan điểm sai lầm.

Cái chết, vô thường và những điều kiện thuận lợi tạo thành chủ đề cho những bài kệ tiếp theo của bản văn. Vì cuộc đời thì chóng vánh như một bọt nước bị gió thổi tan, Long Thọ cổ vũ độc giả, đã có những điều kiện may mắn làm tiền đề cho sự thực hành Pháp, hãy cố gắng cho giải thoát không trì hỗn. Nếu sự sanh làm người không được sử dụng thích đáng, người ta sẽ tiếp tục kinh nghiệm khổ đau của sáu cõi sanh tử luân hồi, như được Long Thọ diễn tả. Những diễn tả này giống như những bản văn cùng loại. Chúng làm phát sanh một sự ghê sợ đối với hiện hữu sanh tử và một mong muốn giải thoát. Độc giả gặp những diễn tả này lần đầu cần được cảnh báo chớ hiểu lầm chúng là tưởng tượng hoang đường, vì chúng làm hoàn thiện một chức năng trọng yếu trong tiến trình giải thoát. Bởi vì mục đích cao nhất là giải thoátgiác ngộ không thể hoàn thành trừ phi và cho tới khi nào bám luyến vào thế giới được thanh toán, những mô tả chi tiết của những khổ đau nhiều mặt là cần thiết để sanh ra sự từ bỏ, điều này là thiết yếu để bước lên con đường đến giải thoát. Cần nhớ rằng “chân lý về khổ” là cái đầu tiên của Bốn Chân Lý Cao Cả và là hòn đá nền của Phật giáo.

Bức thư của ngài Long Thọ kết thúc với một diễn tả con đường và kết quả vô song sẽ đạt được qua thực hành này. Giới, định và huệ sanh khởi từ sự thấu hiểu Duyên Sanh, bao trùm con đường đưa đến trạng thái cao cả của một Bồ tát hay Phật.

Từ đó, như đã nói ở trước, Suhrïllekha của Acarya Nagarjuna cung cấp cho người ngưỡng mộ muốn làm quen với những căn bản của con đường giải thoát một tóm tắt dễ hiểu những nguyên lý Phật giáo. Nền tảng của hạnh kiểm đạo đức đúng và cái hiểu đúng về chân lý giải thoát khỏi những che chướng của vô minh tựu thành một cách thức hiện hữu siêu việt, nó không chỉ là giải thoát khỏi ràng buộcvô minh, mà còn là khả năng trưởng dưỡng tất cả chúng sanh để họ cũng đạt đến giác ngộ.

 


ABOUT PETER DELLA SANTINA

Peter Della Santina was born in the USA. He has spent many years studying and teaching in South and East Asia. He received his BA. in religion from Wesleyan University, Middletown, Connecticut, USA in 1972 and a MA in philosophy from the University of Delhi, India two years later. He did his Ph.D. in Buddhist Studies also from the University of Delhi, India in 1979. 

He worked for three years for the Institute for Advanced Studies of world 
Religions, Fort Lee, New Jersey as a research scholar translating 8th century Buddhist philosophical texts from the Tibetan. He taught at several Universities and Buddhist centers in Europe and Asia including, the University of Pisa in Italy, the National University of Singapore and Tibet House in Delhi, India. He was the Coordinator of the Buddhist Studies project at the Curriculum Development Institute of Singapore, a department of the Ministry of Education from 1983 to 1985. 

 More recently, he was a senior fellow at the Indian Institute of Advanced Study, Simla, India and taught Philosophy at the Fo Kuang Shan Academy of Chinese Buddhism, Kaoh-shiung, Taiwan. 

For twenty-five years Peter Della Santina has been a student of H.H. Sakya Trizin, leader of the Sakya Order of Tibetan Buddhism and of eminent abets of the Sakya Tradition. He has practiced Buddhist meditation and has completed a number of retreats. He has published several books and articles in academic journals including Nagarjuna's Letter to King Gautamiputra, Delhi 1978 and 1982 and Madhyamaka Schools In India, Delhi 1986 and the Madhyamaka and Modern Western Philosophy, Philosophy East and West, Hawaii, 1986.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34384)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16881)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22984)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13067)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22209)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14876)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23599)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24134)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23661)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17158)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19369)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27092)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14434)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13854)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14767)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17375)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12689)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13886)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10425)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14719)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17208)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12560)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12727)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10381)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28729)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10722)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11141)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16889)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15789)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13355)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12566)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11382)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19321)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12261)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28635)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10062)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21549)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12803)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17837)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26269)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11718)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10867)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22771)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12057)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10619)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11423)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11543)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant