Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Các Nữ Tu Sĩ Phật Giáo Tây Phương: Hiện Tượng Mới Trong Truyền Thống Cổ Xưa

25 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 8448)
04. Các Nữ Tu Sĩ Phật Giáo Tây Phương: Hiện Tượng Mới Trong Truyền Thống Cổ Xưa

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần I
SỰ THỌ GIỚI, HỆ PHÁI VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI TĂNG ĐOÀN

Các Nữ Tu Sĩ Phật Giáo Tây Phương
Hiện Tượng Mới Trong Truyền Thống Cổ Xưa
BHIKSHUNI THUBTEN CHODRON

Cách đây nhiều năm trong một hội nghị đa tôn giáo tại Âu châu, tôi đã được hỏi về đời sống của chư ni người Tây phương. Nghĩ rằng người ta chẳng quan tâm để hỏi về đời sống bình thường của tôi, nên thay vào đó tôi đã giảng một bài Pháp về việc rèn luyện tâm từ bi như thế nào. Sau đó, nhiều người đã đến gặp và nói, “Bài thuyết pháp của ni sư rất hay, nhưng chúng tôi thật sự muốn nghe về đời sống của chư ni Tây phương! Chư ni đã sống như thế nào? Chư ni có những khó khăn và thuận lợi gì?” Đôi khi không dễ dàng để nói về những điều đó. Khi nói về những khó khăn, sẽ dễ sinh ra phàn nàn, hoặc khiến người khác nghĩ là mình phàn nàn; còn kể về những thuận lợi, dễ sinh ra khoe khoang hoặc khiến người khác nghĩ rằng mình kiêu mạn. Dầu gì, bài tham luận này được viết theo quan điểm của một người đã thọ giới theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng chứ không hàm ý đại diện cho tất cả chư ni Tây phương.

Phật pháp đã làm rung động mạnh trái tim của những người Tây phương, những người đã chọn trở thành nữ tu sĩ Phật giáo Tây phương. Vì vậy, trái với sự mong đợi của văn hóa, của gia đình, chúng tôi rời bỏ công việc của mình, từ giã người thân để xuất gia làm nữ tu sĩ Phật giáo, và trong nhiều trường hợp, rời bỏ quê hương đến sống ở xứ người. Mấy ai can đảm làm những điều này để được tu theo Phật pháp? Chúng tôi không giống các nữ tu sĩ Á châu ở những chỗ nào? 

Nói chung là phụ nữ Á châu xuất gia khi họ còn là những thiếu nữ trẻ, dễ dạy, ít có kinh nghiệm cuộc sống, hoặc khi đã có tuổi, gia đình con cái đã trưởng thành, họ xuất gia đến sống ở chùa để tìm nguồn an ủi tâm linh hay thể xác. Trái lại, đa số các nữ tu sĩ Tây phương xuất gia khi đã trưởng thành. Nhiều người có học thức cao, có nghề nghiệp và thường đã có gia đình, con cái. Họ đem tài năng, sức lực vào chùa, đồng thời cũng mang theo các thói quen và những đòi hỏi đã được mài dũa qua bao năm tháng tiếp xúc với thế tục. Khi phụ nữ Á châu xuất gia, họ được gia đìnhcộng đồng hỗ trợ, và việc trở thành người tu luôn được xã hội chấp nhận, tôn kính. Ngoài ra, văn hóa Á châu chú trọng vào đoàn thể hơn là cá nhân riêng lẻ, do đó tương đối dễ cho người mới tu hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng trong chùa. Khi còn ở trong gia đình, họ ngủ chung với các chị em khác và được dạy là phải đặt hạnh phúc gia đình trên quyền lợi cá nhân, phải kính trọng, vâng lời cha mẹ và thầy cô. Ngược lại, các nữ tu sĩ Tây phương trưởng thành trong một nền văn hóa coi trọng cá nhân hơn đoàn thể, khiến họ có nhiều tính cách cá nhân hơn. Phụ nữ Tây phương phải có nhiều cá tính mới có thể trở thành nữ tu sĩ Phật giáo: gia đình trách móc họ từ bỏ công việc lương cao và không chịu có con. Xã hội Tây phương gán tội họ là những ký sinh trùng lười biếng, không chịu làm việc; và văn hóa Tây phương cáo buộc là họ đè nén sinh lý, lẩn tránh những mối quan hệ mật thiết. Người phụ nữ Tây phương nếu quá quan tâm đến những gì người khác nghĩ, sẽ khó trở thành một nữ tu sĩ Phật giáo. Người phụ nữ đã xuất gia theo Phật giáo thường có khả năng tự chu cấptự lực. Những phẩm hạnh, nói chung là rất giá trị, nhưng nếu thể hiện đến cực đoan, đôi khi khiến cho người phụ nữ có nhiều cá tính sẽ khó sống chung trong chúng. Đó là, nếu có một cộng đồng để sống trong đó.

Vì là thế hệ nữ tu sĩ Phật giáo Tây phương đầu tiên, nên chúng tôi thực sự là những kẻ sống không nhà. Ít có chùa ở Tây phương, nên nếu chúng tôi cần trú ngụ ở chùa thì thường phải trả tiền, vì chùa không có tiền. Điều này gây khó xử cho chúng tôi: làm thế nào mà một người xuất gia tuân giữ giới luật bao gồm đắp y, cạo tóc, không giữ tiền, không buôn bán, lại kiếm ra tiền?

Nhiều người Tây phương nghĩ rằng cũng có một tổ chức bảo trợ, giống như Nhà Thờ Thiên Chúa, cưu mang chúng tôi. Nhưng không phải như vậy. Vị sư phụ Tây Tạng của chúng tôi không cấp dưỡng tiền bạc cho chúng tôi, ngược lại trong nhiều trường hợp, ngài còn kêu gọi chúng tôi gây quỹ để giúp đỡ các vị tăng Tây Tạng, đang lánh nạn tại Ấn Độ. Một số nữ tu sĩ Tây phương có chút tiền tiết kiệm nhưng chúng nhanh chóng được tiêu thụ. Số khác có được bạn bè tốt và gia đình giúp đỡ. Một số khác nữa, vì hoàn cảnh phải hoàn tục, tìm việc làm trong các thành phố. Điều này gây trở ngại cho người xuất gia giữ giới và ngăn trở các nữ tu sĩ Tây phương trong việc học và hành pháp một cách miên mật - là mục đích chính để họ xuất gia

Vậy thì làm thế nào người ta được nhận vào chùa tu học? Một số nữ tu sĩ Tây phương chấp nhận ở lại châu Á càng lâu càng tốt. Nhưng họ lại gặp vấn đề hộ chiếu và ngôn ngữ. Các ni viện Tây Tạng thường lại quá tải, không có chỗ cho người ngọai quốc trừ phi họ trả tiền để ở trong các phòng trọ. Chư ni Tây Tạng học và hành lễ bằng tiếng Tây Tạng, việc học của họ bắt đầu bằng cách học thuộc lòng. Trong khi đa số các nữ tu sĩ Tây phương không biết tiếng Tây Tạng lại học bằng cách dịch kinh sang tiếng Anh. Thêm nữa, học thuộc lòng kinh điển bằng tiếng Tây Tạng thì họ không hiểu nghĩa. Họ muốn hiểu nghĩa lý của kinh để thực hành. Họ muốn học thiền và hành Pháp. Trong khi các nữ tu sĩ Tây Tạng thường lớn lên trong các gia đình Phật giáo và môi trường văn hóa từ nhỏ. Các nữ tu sĩ Tây phương đang tìm hiểu một tín ngưỡng mới, do đó họ có nhiều câu hỏi và vấn đề khác nhau. Thí dụ, trong khi một nữ tu sĩ Tây Tạng dễ dàng tin theo Tam Bảo thì nữ tu sĩ Tây phương muốn biết rõ Phật, Pháp, Tăng là gì và làm sao biết những điều đó có thực sự hiện hữu. Do đó, dầu ở ngay tại Ấn-độ, các nữ tu sĩ Tây phương cũng không hoà mình vào được các viện Phật học Tây Tạng truyền thống.

Nhiều nữ tu sĩ Tây phương được gửi tới làm việc trong các trung tâm Phật học ở các nước Tây phương, ở đó họ được chu cấp nơi ăn, chốn ở, và một ít tiền thù lao dành cho nhu cầu cá nhân, để bù đắp cho công việc họ làm tại trung tâm. Dầu ở những nơi đó, họ có thể học hỏi bằng tiếng mẹ đẻ, nhưng đối với các nữ tu sĩ mới xuất gia thì cuộc sống ở đó khá khó khăn vì họ phải chung đụng với hàng cư sĩ. Giáo trình ở trung tâm được soạn ra cho các sinh viên bình thường, và vị la-ma trú xứ, nếu có mặt, thì cũng thường quá bận rộn với cộng đồng cư sĩ làm sao có thể giảng dạy cho một hay hai vị tu sĩ Tây phươngtrung tâm.

Chuyển Hóa Nghịch Cảnh Thành Thuận Duyên

Những khó khăn được mô tả bên trên cũng là thử thách cho việc tu tập. Người nữ tu sĩ cần tập trung vào giáo lý của đức Phật để giữ tâm thanh tịnh trong mọi hoàn cảnh. Vị ấy cần quán tưởng sâu xa về sự vô thường và sự chết cho đến vẫn cảm thấy an tịnh, dù thiếu thốn vật chất. Vị ấy phải quán chiếu về những điều bất lợi của việc bám víu vào tám pháp thăng trầm của thế gian, để những sự khen chê của người khác không ảnh hưởng đến mình. Vị ấy phải quán tưởng về nghiệp quả, ngỏ hầu chấp nhận những thử thách trên đường tu học. Và vị ấy cần phát tâm vị tha với mong ước sửa đổi được những tình trạng này, để người khác không phải chịu đựng giống như thế trong tương lai. Như vậy, những trở ngại của vị ấy là chất xúc tác cho việc tu học và qua tu tập, tâm của vị ấy được chuyển hóa, trở nên thanh tịnh.

Một trong những thử thách lớn nhất là sống độc thân ở các nước Tây phương, nơi mà vấn đề tình dục được phổ biến tràn lan trên các phương tiện truyền thông. Làm sao người ta có thể sống hạnh phúc khi mà văn hóa phương Tây phổ biến tình dục như là điều tốt đẹp của cuộc sống? Lại nữa, sự tu học là thầm kín. Để giữ giới, chúng tôi phải nhìn vượt lên trên những bề ngoài giả tạo. Chúng tôi phải hiểu sự trói buộc của tình cảm và tình dục đã ăn sâu vào tâm tư và giam giữ chúng tôi như thế nào trong vòng luân hồi. Chúng tôi phải hiểu bản chất của tình cảm và học đối mặt với chúng bằng những phương cách tích cực mà không cần người khác phải an ủi, vỗ về chúng tôi

Người ta hỏi chúng tôithăm viếng gia đình, bạn bè và có nhớ họ không. Nữ tu sĩ Phật giáo không phải là tù nhân. Chúng tôi vẫn có thể thăm viếng gia đình và bạn bè. Chúng tôi không ngừng quan tâm đến người khác chỉ vì chúng tôi đã xuất gia. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng chuyển hóa tình cảm mà chúng tôi dành cho họ. Đối với người bình thường trong cuộc sống thế tục, tình thương yêu thường dẫn đến sự bám víu, chấp chặt, một tình cảm phóng đại các ưu điểm của một người, khiến ta không muốn phải xa cách họ. Thái độ này khiến ta thiên vị - thích người mình yêu và ghét kẻ ta không yêu và trở nên bàng quang với những chúng sinh khác mà ta không biết.

Là người tu hành, chúng ta phải nỗ lực chống lại khuynh hướng này, thiền về tâm từ, bi, hỷ, xả để mở rộng cõi lòng, xem tất cả chúng sanh là người thân của mình. Càng rèn luyện tâm theo cách này, chúng ta càng ít bám víu vào người thân và càng thương yêu tất cả chúng sinh nhiều hơn, chỉ vì họ cũng giống như chúng ta, là những chúng sinh muốn hạnh phúc và tránh khổ đau. Cách mở rộng tâm như thế không có nghĩa là chúng ta không yêu mến cha mẹ mình. Ngược lại, thiền quán về ân đức của mẹ cha mở mắt cho chúng ta thấy tất cả những gì họ đã làm cho ta. Tuy nhiên, thay vì chỉ bám víu nơi cha mẹ, chúng ta cố gắng trải rộng tình thương cho tất cả chúng sinh. Niềm hỷ lạc nội tâm lớn lao sẽ khởi sinh khi chúng ta phát triển tâm xả và trải rộng tâm tới tất cả chúng sinh. Ở lãnh vực này, chúng tôi cũng vấp phải trở ngại - phải sống xa gia đình và bạn bè - là yếu tố kích thích sự phát triển tâm linh khi chúng tôi ứng dụng giáo lý vào đó. 

Nhiều hoàn cảnh lúc đầu thấy như bất tiện có thể trở nên có lợi. Chẳng hạn, các nữ tu sĩ Tây phương không nằm trong tổ chức tôn giáo Tây Tạng với hệ thống cấp bậc chỉ bao gồm chư tăng. Điều bất lợi này lại cho chúng tôi sự tự do để tổ chức tu tập. Thí dụ quy chế tỳ-khưu ni hay sự thọ đại giới của phụ nữ không bao giờ phổ biếnTây Tạng do sự khó có được con số tỳ-khưu ni cần thiết vì họ không thể vượt qua dãy núi Hy-mã-lạp-sơn như đã xảy ra trong các thế kỷ trước. Việc thọ giới sa-di ni thì có trong truyền thống Tây Tạng và được chư tăng cho phép. Dầu một số chư tăng trong đó có đức Đạt-lai Lạt-ma chấp nhận việc các ni theo truyền thống Tây Tạng được thọ giới tỳ-khưu ni từ các chùa Trung Hoa, các tổ chức tôn giáo Tây Tạng không chánh thức phê chuẩn điều này. Trong những năm gần đây, nhiều nữ tu sĩ Tây phương đã thọ giới tỳ-khưu ni từ các chùa theo truyền thống Trung Hoa và Việt Nam. Vì thuộc về cộng đồng Tây Tạng và có trách nhiệm đối với áp lực xã hội, các nữ tu sĩ Tây Tạng sẽ gặp nhiều khó khăn nếu họ làm giống như các nữ tu sĩ Tây phương. Như thế, việc không hoàn toàn hội nhập vào hệ thống tôn giáo Tây Tạng lại là điều có lợi đối với các nữ tu sĩ Tây phương.

 

Thọ Giới Xuất Gia

Để được thọ giới xuất gia thành nữ tu sĩ Phật giáo, người phụ nữ phải có kiến thức tổng quát về Phật Pháp và một ước nguyện mạnh mẽ, kiên trì muốn được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Người đó phải xin phép một vị thầy để được xuất gia. Theo truyền thống Tây Tạng thì đa số quý thầy là tăng sĩ, dầu có một số là cư sĩ. Hiện tại có rất ít bậc thầy là phụ nữ. Nếu vị thầy đồng ý, ông ấy sẽ sắp xếp buổi lễ xuất gia, nếu là thọ giới sa-di hay sramarenika, chỉ kéo dài vài giờ. Nếu sa-di ni trong truyền thống Tây Tạng sau này muốn thọ giới tỳ-khưu ni, vị ấy phải tìm vị y chỉ sư trong truyền thống Trung Hoa, Đại Hàn hay Việt Nam. Vị ấy phải đi đến tận chỗ, nơi lễ thọ giới sắp được tổ chức, và phải trải qua thời gian rèn luyện từ một tuần đến một tháng trước khi buổi lễ thọ giới thật sự được diễn ra. Tôi thọ giới sa-di ni tại Dharamsala, Ấn-độ vào năm 1977, và chín năm sau đó tôi tới Đài Loan để thọ giới tỳ-khưu. Trải qua chương trình rèn luyện một tháng bằng tiếng Trung Hoa đã là một thử thách và sau hai tuần thì tôi và một nữ tu sĩ Tây phương khác đã vui mừng khi vị y chỉ sư cho phép một vị ni khác dịch cho chúng tôi trong một số lớp học. Tuy nhiên, kinh nghiệm trong việc tu học để trở thành tỳ-khưu ni trong hai truyền thống Trung Hoa và Tây Tạng đã khiến cho việc tu tập của tôi được phong phú thêm và cũng đã giúp cho tôi thấy Pháp trong tất cả mọi truyền thống Phật giáo, dầu có sự khác biệt bề ngoài và những hình thức văn hóa mà mỗi bên sử dụng.

Sau khi thọ giới, chúng tôi phải được rèn luyện về giới luật nếu chúng tôi muốn giữ giới tốt. Một tân ni sư có thể thỉnh cầu một trong những vị thầy của mình giải thích về ý nghĩa của từng giới, làm gì thì bị coi là phạm giới và làm cách nào để sám hối lỗi lầm. Dầu một nữ tu sĩ Tây phương thường có thể nhận được sự rèn luyện về giới mà không gặp sự khó khăn nào, nhưng việc thiếu chùa dành cho các nữ tu sĩ có nghĩa là họ thường phải xao lãng sự tu tập mà các nữ tu sĩ sống chung trong một cộng đồng có thể có được. 

Là người tu sĩ, trách nhiệm đầu tiên của chúng tôi là phải sống giữ giới cho trong sạch. Giới luật không là một gánh nặng mà là một niềm vui. Nói cách khác, chúng tôi tự nguyện chấp nhận giữ giớichúng tôi biết rằng giới luật giúp chúng tôi trên bước đường tâm linh. Giới luật giải thoát chúng tôi khỏi hành động sai lầm, thiếu suy nghĩ. Sa-di ni giữ mười giới và được chia thành ba mươi sáu tiểu giới; các ni tâp sự giữ thêm sáu giới nữa; tỳ-khưu ni giữ 348 giới như đã được ghi trong trường phái Dharmagupta của tạng luật, có truyền thừa tỳ-khưu ni duy nhất hiện nay. Các giới được chia ra nhiều loại khác nhau, mỗi loại có phương cách tương ưng để đối phó với việc phạm giới. Các giới gốc quan trọng nhất và phải được giữ gìn cẩn thận để được làm người tu. Các giới này bao gồm không sát sanh, không trộm cắp, không hành dâm, không nói dối về việc đắc các pháp,… Nếu các giới này không được giữ trọn vẹn thì người phạm giới phải hoàn tục. Các giới khác nói về sự liên hệ trong ni chúng với nhau, với chư tăng, và với cộng đồng cư sĩ. Các giới khác nữa nói về cách ăn uống, đi đứng, y áo và chỗ trú ngụ. Phạm các giới này có thể sám hối bằng nhiều cách khác nhau tùy mức độ nặng nhẹ: có thể sám hối bằng cách thú tội với vị tỳ-khưu ni khác, sám hối trước chúng tỳ-khưu ni, hoặc phải từ bỏ vật sở hữu có dư hay có được một cách bất chánh…

 

Cuộc Sống Hàng Ngày

Giới luật tạo nên một nền tảng cho việc hành Pháp sâu xa hơn. Là người tu, chúng tôi muốn học và hành Phật Pháp để có thể chia sẻ với người khác càng nhiều càng tốt. Các nữ tu sĩ Tây phương sống trong nhiều môi trường khác nhau: đôi khi trong một cộng đồng - chùa hoặc các trung tâm Phật học - và đôi khi sống một mình. Dầu ở môi trường nào, một ngày của chúng tôi cũng bắt đầu bằng việc tụng kinh và hành thiền trước khi ăn sáng. Chúng tôi cũng làm những công việc cụ thể khác để sinh tồn và giúp đỡ người khác, kể cả công việc nhà. Buổi chiều chúng tôi hành thiền và các nghi thức tâm linh. Đôi khi phải hành thiền vài giờ với một thời biểu đầy kín việc là một thử thách đối với chúng tôi, nhưng vì việc hành thiền và tụng kinh là mạch sống của chúng tôi nên chúng tôi cố gắng hoàn thành những bổn phận đòi hỏi nhiều thời gian này. Khi công việc ở các trung tâm quá bộn bề hoặc có nhiều người cần giúp đỡ, thì chúng tôi thường phải rút bớt thời gian tu tập của mình. Tuy nhiên, làm như vậy gây nhiều hậu quả, vì nếu để chúng biến thành thói quen thì chúng tôi khó giữ giới luật của người tu. Vì thế, hàng năm chúng tôi dành ra vài tuần - hoặc vài tháng nếu có thể - trong thời gian bận rộn của mình cho việc chuyên tu để phát triển công phu tu tập của mình…

 

Vai Trò Của Tăng GiàTây Phương

Từ "Sangha" (Tăng đoàn/ Tăng già/ Tăng bảo) được dùng theo nhiều cách khác nhau. Khi chúng tôi dùng từ Sangha để nói đến một trong Tam Bảo, thì có thể là bất cứ ai - tu sĩ hay cư sĩ - miễn là người đó đã chứng được tánh Không của sự hiện hữu một cách trực tiếp. Sự chứng đắc rõ ràng về thực tại của vị đó khiến vị đó đáng để chúng ta nương trú vào. Trong cộng đồng Phật giáo truyền thống, thuật ngữSangha” (Tăng đoàn) nhằm chỉ một nhóm bốn hoặc nhiều hơn các vị tỳ-khưu đã thọ đầy đủ giới, và người tu sĩ là thành viên của tăng đoàn. Một vị tăng hoặc cộng đồng tăng được kính trọng không phải vì cá nhân họ đặc biệt, nhưng là vì các vị đã tuân giữ giới luật do đức Phật ban hành. Mục đích tối thượng trong đời họ là rèn luyện tâm bằng cách giữ giớithực hành giáo pháp.

Tây Phương, người ta thường sử dụng từ “sangha” một cách cẩu thả để chỉ bất cứ ai hay lui tới chùa. Người này có thể giữ hay không giữ ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Dùng chữ "sangha" (tăng) theo cách này dễ đưa đến hiểu lầm. Tốt hơn hết nên sử dụng nó theo truyền thống.

Cá nhân các nữ tu sĩ cũng rất khác biệt nhau, và bất cứ sự thảo luận nào về vai trò của hội chúng (tăng đoàn) phải lưu ý đến điều đó. Vì Phật giáo còn mới mẻ ở Tây phương, nên có nhiều người thọ giới mà không được chuẩn bị đầy đủ. Sau này một số người khám phá ra rằng cuộc sống của người xuất gia không phù hợp, nên bỏ lời thệ nguyện, ra hoàn tục. Số khác không thể giữ giới trong sạchchánh niệm của họ chưa phát triển vững, khiến họ dễ rơi vào tạp niệm. Do đó khi thảo luận về vai trò của hội chúng (tăng già), chúng ta phải kể đến những người bằng lòng với đời sống xuất gia, tinh tấn thực hành Pháp Bảo để đoạn trừ phiền não và sẽ là tu sĩ suốt đời.

Nhiều người Tây phương nghi ngờ sự lợi ích của Sangha (tăng già). Về mặt lịch sử, dầu cá nhân các tu sĩ đến từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng mọi người đều được tiếp nhận pháp học khi đã xuất gia, vì vai trò của hội chúng (tăng già) là để bảo trì giáo pháp cho thế hệ tương lai. Ngày nay, ở Tây phương, đa số có học vấn và có thể tham khảo Pháp bên ngoài hội chúng, hoặc nghe các nhà thông thái giảng về Phật giáo. Hơn nữa, trước kia chỉ có tu sĩ là có thể có thời giờ để toạ thiền trong thời gian dài để chứng đạt ý nghĩa của Pháp. Ngày nay người cư sĩ cũng có thể nghỉ việc trong thời gian dài để tu thiền. Dựa trên những sự thay đổi này trong xã hội, các cư sĩ có thể tự hỏi, “Vậy thì cần gì đến hội chúng? Tại sao chúng tôi không được coi là một hội chúng (tăng già) trong thời buổi hiện tại?”

Tuy nhiên, với kinh nghiệm của người là cư sĩ trước kia, và nay là tu sĩ, thì tôi nhận thấy có sự khác biệt giữa hai hạng người này. Đành rằng các cư sĩ có thể đảm nhiệm những công việc theo truyền thống chỉ dành cho tăng đoàn - đôi khi làm tốt hơn cả người tu - nhưng vẫn có sự khác biệt giữa người sống theo giới luật (tỳ-khưu ni có 348 giới) thì vẫn hơn người không giữ giới. Những giới luật này giúp ta từ bỏ các thói quen và các phản ứng tình cảm cũ. Một cư sĩ chọn sống ẩn dật, nếu mệt mỏi với sự tu hành cực khổ trong các khoá chuyên tu có thể dừng lại, rồi đi làm việc để hưởng đời sống sung túc. Một nữ giáo sư đại học có thể làm đẹp. Cô có thể tìm thấy mình qua mối liên hệ với chồng con hay bạn bè. Cô có thể từ bỏ một mối liên hệ nếu không được thoả mãn, đó là sự lựa chọn của cô. Cô có thể giảng về giáo lý Phật đà, nhưng cô hoà nhập trong xã hội, không ai có thể nhận biết cô là Phật tử hay tu sĩ. Cô không đại diện Pháp trước công chúng, nên cô có thể dễ dàng ứng xử không theo một khuôn phép nào cả. Nếu cô có nhiều tài sản - xe hơi đắc tiền, quần áo đẹp - và phơi mình trên bãi biển thì cũng không ai thắc mắc gì về những điều này. Nếu cô khoe khoang về sự thành công của mình và chê trách kẻ khác khi bị thất bại thì cũng không sao. Nói tóm lại, sự bám víu của cô trong việc thoả mãn nhục dục, và vào lời khen, tiếng chê được coi là bình thường, và không ai, kể cả bản thân cô, muốn thắc mắc về chúng.

Tuy nhiên, đối với người tu thì khác. Người nữ tu sĩ đã đắp y, cạo tóc nên bà và người chung quanh đều biết bà đang sống theo giới luật. Điều này giúp bà rất nhiều trong việc loại trừ tham, sân khi chúng phát khởi trong cuộc sống. Nam giới biết rằng bà đang giữ đời sống độc thân, nên cư xử với bà khác biệt. Họ và bà khi gặp gỡ, không có chuyện tán tỉnh như trai gái thường tình và cả hai tự chế ngự hành vi nếu như có sự lôi cuốn giữa hai người khác phái. Người nữ tu sĩ không quan tâm đến áo quần hay vẻ bề ngoài của mình. Việc đắp ycạo tóc giúp người ấy thoát khỏi những sự bám víu này, đem lại sự bình đẳng, đồng nhất khi chung sống với các bạn đạo. Chiếc y và giới luật giúp người nữ tu sĩ ý thức về hành động hay nghiệp và kết quả của chúng. Vị ấy dùng thì giờnăng lực để quán chiếu về tư tưởng, lời nói, hành động sao cho có lợi ích cho mình và cho người. Như vậy, dù có ở một mình nhưng sức mạnh của giới giúp vị ấy có nhiều chánh niệm để chống lại những tư tưởng bất thiện. Nếu vị ấy cư xử không đúng phép với kẻ khác, thì thầy tổ, bạn đồng đạo và các cư sĩ sẽ lập tức phản ứng. Việc giữ giới của người tu mang đến nhiều lợi ích cho cuộc đời của họ, mà người không giữ giới sẽ khó lòng hiểu được. Vì thế, thật sự có sự khác biệt giữa cách sống của một học giả Phật tử hay người cư sĩ sống ẩn dật và các tu sĩ. Một nữ tu sĩ vừa xuất gia không lâu đã thổ lộ - dầu trước kia bà là một Phật tử thuần thành trong nhiều năm - rằng trước khi xuất gia bà không hiểu làm thế nào mà bà có thể cảm nhận hay xử sự khác đi sau khi xuất gia. Tuy nhiên, sau khi xuất giangạc nhiên về sức mạnh của sự thọ giới: cảm giác nội tại của một hành giả và sự chánh niệm về các hành vi của bà đã thay đổi đáng kể sau khi thọ giới…

 

Sự Đóng Góp Của Nữ Tu Sĩ Tây Phương

Nhiều người Tây phươngthiên kiến rằng các tu sĩ là những người xa lánh xã hội, không đóng góp gì cho xã hội được tốt hơn. Họ nghĩ rằng các tu sĩ đã trốn tránh trách nhiệm vì không thể đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Điều này không đúng với sự thật. Nguyên nhân căn bản của những vấn đề của chúng ta không phải là các hoàn cảnh bên ngoài, mà chính là những trạng thái tâm bên trong - các thái độ dính mắc vào tham, sân và si. Chúng không biến mất khi chúng ta đắp y, cạo tóc và sống trong chùa. Chừng nào chúng ta chưa thể loại bỏ chúng thì chúng theo ta đến bất cứ nơi nào. Như vậy, làm người xuất gia không phải là cách trốn tránh vấn đề. Đúng hơn là nó khiến ta phải soi xét lại mình kỹ hơn, vì chúng ta không còn có thể tìm quên trong những tiêu khiển như uống rượu, dùng các chất say, đi mua sắm và đi giải trí. Người tu sĩ nguyện loại bỏ cái gốc của khổ đau chính trong tâm họ và cũng hướng dẫn cho người khác làm như vậy. 

Dầu người tu sĩ dành nhiều thì giờ cho việc tu tập, nhưng họ có những đóng góp giá trị cho xã hội. Thứ nhất, giống như tu sĩ của các tôn giáo khác, nữ tu sĩ Tây phương cũng sống đơn giảntrong sạch hầu làm gương cho kẻ khác. Bằng việc tránh tiêu dùng một cách phí phạm hay xan tham, các người tu sĩ chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ có thể sống giản đơn và bằng lòng với những gì mình có. Thứ hai, bằng cách hạn chế những khuynh hướng tiêu dùng, người tu sĩ bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai. Và thứ ba, bằng cách sống độc thân, người tu đã hạn chế sinh sản, do đó giúp ngăn chận sự gia tăng dân số! 

Bằng cách thuần hóa "tâm vượn" của mình, các nữ tu sĩ có thể hướng dẫn người khác phương cách thực hành. Khi người khác biết cách thực hành thì họ sẽ sống vui hơn, có quan hệ tốt đẹp hơn, tâm họ ít lo âu hơn và ít sân hơn. Trao truyền giáo lý của đức Phật để loại trừ các phiền não bên trong và giải quyết được những xung đột với kẻ khác là sự đóng góp vô giá mà các nữ tu sĩ có thể mang đến cho xã hội…

Các nữ tu sĩ Tây phương không bị gò bó vào một số áp lực trong các xã hội Á châu. Thí dụ chúng tôi có thể dễ dàng tiếp nhận giáo pháp từ nhiều vị thầy thuộc nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Chúng tôi không bị bó buộc vào các quan niệm lỗi thời từ các thế kỷ xa xưa về các truyền thống khác, chúng tôi cũng không chịu áp lực xã hội là phải trung thành với các truyền thống Phật giáo quốc gia giống như các nữ tu sĩ Á châu. Điều này cho chúng tôi có nhiều tự do trong lãnh vực giáo dục và giúp chúng tôi có thể tiếp nhận cái tốt nhất trong nhiều truyền thống Phật giáo. Nó cũng cải thiện khả năng giảng dạy cho người khác, và đẩy mạnh đối thoại và hoà hợp giữa nhiều truyền thống Phật giáo

Các nữ tu sĩ Tây phương có nhiều khả năng giúp đỡ cộng đồng Phật giáo. Một số là giảng sư, số khác dịch các giáo lý truyền miệng và văn bản, số khác nữa tham dự các khoá tu thiền dài hạn, tạo ra những tấm gương hành Pháp miên mật. Một số nữ tu sĩ làm cố vấn giúp đỡ các hành giả vượt qua khó khăn trên đường tu tập. Nhiều người, nhất là phụ nữ, cảm thấy thoải mái khi thảo luận về những vấn đề riêng tư hay tình cảm với chư ni hơn là chư tăng. Một số nữ tu sĩ làm việc trong các nhà giữ trẻ, nhà nuôi người bệnh sắp chết hay trong các cộng đồng tỵ nạn của quốc gia họ và nước ngoài. Một số nữ tu sĩ là nghệ sĩ, văn sĩ, y sĩ hay giáo sư đại học. Một số nữ tu sĩ chỉ làm việc hậu cần; họ là những lao động chủ yếu nhưng vô hình, sự làm việc quên mình của họ giúp các trung tâm Phật học và các thầy tại trú xứ có thể phục vụ công chúng…


Thành KiếnKiêu Mạn

Người ta thường hỏi chúng tôi có bị phân biệt đối xử vì là nữ giới. Dĩ nhiên là có! Phần lớn các xã hội trên thế giới đều do nam giới làm chủ, nên các xã hội Phật giáo cũng không phải là một ngoại lệ. Thí dụ, để tránh sự khởi tâm trong tình dục, các nữ và nam tu sĩ phải cư trú và ngồi cách biệt với nhau. Vì nam giới theo truyền thống phải là thủ lãnh trong phần lớn các xã hội, và vì số tăng đông hơn ni nên chư tăng thường được nhận những chỗ ngồi và cốc liêu thích đáng hơn. Trong xã hội Tây Tạng, chư tăng được học cao hơn chư ni, nên được kính trọng hơn trong xã hội. Hơn nữa, vai trò tiêu biểu của phái nữ trong tôn giáo cũng hiếm. Ngoài ra, cộng đồng cư sĩ - kể cả nhiều phụ nữ Tây phương - cũng thường cúng dường đến các tăng nhiều hơn là các ni. Tăng đoàn đã có truyền thống nhận tứ vật dụng như: thực phẩm, chỗ ở, thuốc men và y áo, dưới dạng phẩm vật cúng dường từ cư sĩ, trong lúc chư ni gặp nhiều khó khăn trong việc được sự rèn luyệngiáo dục phù hợp vì họ không thể tự trang trải các chi phí sinh hoạt, và phải bỏ nhiều thì giờ, không phải cho việc tu học, mà trong việc tìm kiếm những phương tiện khác để có tiền thu nhập. 

Trong khi các nữ tu sĩ Tây phương cũng phải đối diện với những hoàn cảnh tương tự, nhưng họ thường tự tin, quả quyết hơn và thường tìm cách để chuyển những điều bất lợi thành có lợi cho mình. Do số lượng nam và nữ tu sĩ Tây phương còn ít, nên họ được huấn luyện chung, được học cùng nhau, do đó các thầy cũng chia đều trách nhiệm cho cả hai nhóm tu sĩ. Tuy nhiên, khi tham dự các sự kiện Phật giáo ở châu Á, thì các nữ tu sĩ Tây phương không được đối xử giống như các nam tu sĩ Tây phương. Điều thú vị là người châu Á không để ý đến điều này, vì ưu tiên dành cho tăng đã là điều hiển nhiên nên vấn đề không được đặt ra. Đôi khi tôi được hỏi về sự phân biệt đối xử giữa tăng và ni, nói chung, và nữ tu sĩ Tây phương nói riêng. Tôi không thấy việc bàn cãi về những điều này có ích lợi gì. Đối với tôi thì chỉ cần ý thức được thói quen phân biệt và hiểu được cái gốc văn hóa của nó là đủ rồi, như vậy nó không thể ảnh hưởng đến lòng tự tin của tôi. Rồi tôi cố gắng giải quyết vấn đề theo hướng tích cực. Đôi khi tôi hỏi một cách lễ độ; lúc khác, trước hết thì tôi tìm cách đạt được lòng tin, rồi sau đó lòng tôn kính của người khác. Tuy nhiên, trong mọi tình huống tôi đều sử dụng tâm từ…

Đối với cá nhân tôi, với tư cách là một nữ tu sĩ, việc phải giữ nhiều giới hơn chư tăng không hề là một vấn đề. Giới luật càng nhiều, càng nghiêm khắc, thì chánh niệm của tôi càng được cải thiện. Sự tăng trưởng chánh niệm giúp nhiều cho việc tu tập của tôi và giúp tôi tiến bộ trên con đường đạo. 

Tóm lại, các nữ tu sĩ Tây phương chắc chắn có nhiều khó khăn, nhưng cũng chính những khó khăn này có thể thúc đẩy họ tiến trên đường đạo hạnh. Những phụ nữ có khuynh hướng và khả năng thọ và giữ giới, đang trải nghiệm một vận mayhạnh phúc đặc biệt qua việc tu tập tâm linh. Qua công phu tu tập trong việc chiến thắng vượt lên lòng tham, phát triển tâm từ, và nhận thức được bản thể tuyệt đối của sự vật, các nữ tu sĩ có thể làm lợi lạc cho nhiều người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28200)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6694)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8792)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9322)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15394)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8259)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8688)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16740)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26989)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15662)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22549)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19487)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18368)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16216)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25654)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12892)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37872)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20101)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10722)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10044)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10564)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10398)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11047)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15246)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10849)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10787)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11252)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10113)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10573)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11559)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10898)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11411)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12166)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11071)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17788)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15253)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15725)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11006)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12118)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11050)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21864)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12099)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9184)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20185)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17265)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10106)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant