Tâm Nguyên Vô Đề
Tác giả: Nguyên Siêu
Giọng đọc: Lâm Ánh Ngọc
LỜI NÓI ĐẦU
Một tập sách nhỏ, mang nhiều thể tài: đoản văn của sự suy tư, thư thái. Thơ của tư tưởng dung dị hàm tàng những ý niệm về một quê hương yêu dấu từ thuở măng tơ, từ thời thơ ấu lên năm lên bảy còn nằm trong lòng tay của mẹ, để nghe mẹ ru, để nghe mẹ hát, để cảm nhận được trái tim mẹ ấm, tình mẹ nồng và từ đó lớn khôn. Lớn khôn trên quê hương nghèo. Quê hương tất tả nắng mưa. Quê hương gánh gồng cho nhau sức sống. Quê hương của mẹ nuôi lớn thân con. Quê hương đó đã lưu giữ hình bóng mẹ, như lưu giữ một gia tài trân bảo. Lưu giữ hương thơm của dòng sữa ngọt. Ngọt như hoa cau, hoa bưởi. Thơm như đồng lúa vàng reo trong gió chiều rì rào. Quê hương đó có luống cày sâu. Có đồng mạ non. Có dòng sông nhỏ, Có cây đa đầu làng. Có mái đình cong chở che đời sống tâm linh dân làng hôm sớm. Quê hương của đất trời núi cao, biển rộng. Quê hương của giống nòi Lạc Việt hùng anh.
Ý niệm thứ hai là Phật pháp. Từ thời mới xuất gia, đầu còn để chỏm làm điệu của tuổi lên mười. Cái tuổi ngây ngô trong trắng. Mẹ bảo đi tu thì đi. Mẹ bảo ở chùa thì ở. Ở từ thuở ấy cho đến hôm nay, hơn nửa thế kỷ. Giờ này thì mẹ đã mất, và một quê hương cũng phải xa lìa, chỉ còn lại là Phật pháp. Những lời Phật dạy, còn in đậm trong tâm, và mãi mãi tồn trữ cho ngàn vạn kiếp sau. Có lẽ nhờ Phật pháp mà có nhân duyên trong cuộc sống, thăng trầm, hợp tan của nhân thế. Phật pháp nhiệm mầu. Phật pháp cao siêu. Sự nhiệm mầu, cao siêu ấy không thể nói bằng lời, không thể suy tư bằng tư tưởng. Phật pháp tự thân tác chứng. Cuối cùng là ý niệm về ân đức của các bậc Thầy Tổ, Bổn Sư, Giáo thọ sư... Ân đức này một thời đã được cưu mang dưới các mái Phật học viện. Thầy Tổ cho ăn, cho mặc, cho học, cho tu... Suốt thời gian hơn nửa đời người. Nhờ công ơn ấy, nhờ sự giáo dưỡng ấy mà trưởng thành trong sự cố gắng liên lũy. Có lúc cũng mỏi mòn, lắm khi cũng chùn bước, nhưng cứ nghĩ tới ân đức của Thầy Tổ thì đâu đó cũng được vuông tròn, tự nhiên, vô cầu. Có ai gần gũi với ân đức ấy mới thấy được thế nào là một tấm lòng.
Thế nào là nỗi lo lắng cho một tương lai của đàn hậu học. Cho thế hệ kế thừa, tre tàn măng mọc. Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm. Cái Ý. Cái Lòng. Cái Niệm. Cái Tư. Cái Tưởng từ thuở ban sơ. Cái phút giây đầu đời, chân thân, trần trụi. “Vô Đề” trong ý niệm vô niệm. Lời nói như những hạt sương đầu cành. Như những viên đá cuội nằm bên lề đường. Như hạt cát trên bãi biển. Như bọt sóng trong đại dương, trùng khơi vô tận. Nguyện hiến dâng tất cả trong ý niệm Tâm Nguyên.
San Diego, ngày 01 tháng 01 năm 2013
Nguyên Siêu
01.
Dấu chân người đi qua.
Từ đỉnh núi Lăng Già đến cung rồng Kiệt La
chúa tể. Loài thủy tộc tôm cua. Rong rêu. Ngàn năm sóng nước. Trăm năm núi đồi. Vạn năm đồng bằng cỏ xanh. Hoa thơm. Quả lạ. Nơi đó tạo dựng một hành trình còn dang dở. Cuộc lữ hành phiêu lưu. Bất định. Như cuộc lữ rong chơi. Từ đỉnh núi. Ghềnh biển xanh lưu lại vết mòn đôi chân cùng tử. Quên mình, trong chéo áo có ngọc Ma Ni.
02.
Mưa vẫn rơi. Mây vẫn bay.
Gió vẫn thổi. Núi đồi vẫn xanh.
Mây mù giăng măc. Như mờ từng hạt sương chiều. Xoi mòn tảng đá ngàn năm cô quạnh. Trên mặt đất còn nhiều nỗi cô liêu, trong tiếng hót ca loài chim cồn cát.
03.
Bóng tối đổ dài lên vết mòn thời gian,
Vết mòn không gian. Vết mòn tâm thức. Vết mòn thói quen ngàn đời thánh thiện. Vết mòn tạo thành dòng suy tư, làm tôi hiện hữu. Như hiện hữu. Thời gian lặng trôi. Hiện hữu đôi bờ cỏ dại, như bâng khuâng, như dìu dặt, rạp mình nương theo chiều gió. Thiên thu. Thù tạc. Một kiếp nhân sinh.
04.
Bóng nắng tàn. Hoàng hôn đổ xuống.
Phủ ngập núi đồi. Ruộng vườn.
Biển xanh. Sóng nước. Trùng dương thầm lặng từ nguồn suối sâu. Sóng đời vẫn thù tạc. Nhấp nhô. Ngập chìm. Lặn hụp. Soi mòn và đổ nát như những vùng loạn tưởng của tâm thức vô minh.
05.
Rêu xanh. Vách đá. Lá vàng. Lá khô.
Từng hạt tế bào của làn da sạm nắng. Từng sợi lông mi phủ kín mắt ai. Hay những tia nắng rạng rỡ của bình minh như hòa quyện vào lòng
đất. Sống. Chết. Tồn tục như chuỗi thời gian vong thể. Vuốt mặt nhìn đời bằng đôi mắt chua cay. Những giọt nước từ phiến đá lăn tròn. Rơi tỏm hố sâu.
06.
Dáng dấp của thân người gầy. Còng cái lưng. Mòn đôi tay. Dày gót chân. Thời gian. Sờ soạng. Lần khần. Xuôi theo hình vóc. Mỏi mòn. Từ thuở hồng hoang. Khua từng hơi thở. Gục đầu trên đôi tay khô. Đêm dài hun hút. Khỏa lấp kiếp người. Một thời phôi pha. Mộng đời trôi qua.
07.
Lời kinh khuya trầm hùng. Dâng cao.
Thấm sâu vào lòng người mê muội.
Như đêm dài. Như hố sâu; Dằng dặc. Sương mơ. Lặng chìm vào tâm thức. Vô ngôn. Không lời. Thiền tăng chống gậy lên non. Lối mòn hun hút. Để lại sau lưng bụi đường. Trần gian.
08.
Dòng nước lũ. Chảy từ nguồn. Cuộn phù sa.
Nuôi sức sống. Cho người. Cho anh. Cho tôi. Cho em. Cho từng đốm lửa đêm đông vô cùng. Cho từng giọt nước xuôi sông vô cùng. Cho từng hơi thở mông lung vô cùng. Cho từng niệm buồn, tri thức vô chung.
09.
Dòng sông. Mái chùa. Rặng dừa nuôi hồn thơ ngây ngày thêm lớn. Dẵm lên những vết mòn thời gian. Qua đi. Qua đi. Một thời của thủa sơ tâm. Giờ ngó lại đoạn đường. Dĩ vãng như bụi mờ. Sương mơ khỏa lấp dấu chân thời hành điệu. Mười lăm năm lăn lóc. Khốn cùng.
10.
Con ốc sên nép mình dưới lá.
Cắn đọt chồi non.
No tròn năm tháng. Đợi chờ.
Chuyển kiếp lai sinh.
Một sáng bình minh. Hóa hình Bồ Tát.
Lộ trình tu chứng vô sinh.
11.
Trong bóng tối. Người gục đầu.
Gậm đốt ngón tay. Đếm thời gian chảy. Vuốt tóc bạc dài. Rũ hàng mi cong. Bạc cháy. Phận mình. Tủi phận. Số phận làm hình ảnh được lưu lại. Một bóng mờ bỏ sau lưng. Bụi đường. Thời gian. Kỷ niệm. Thoáng qua từng giọt sầu. Thiên thâu. Vực thẳm. Rỏ xuống đời mình. Vô thủy. Vô chung.
12.
Người nằm xuống. Người đứng lên.
Người bước đi. Người ngồi đó để nghe.
Một tiếng khóc. Một tiếng cười. Tiếng vỗ của một bàn tay. Nghe êm ả. Vuốt mặt đợi chờ. Hình bóng cũ. Năm xưa phai nhạt.
Dấu trọn hình hài trong đêm nguyên tiêu.
13.
Bờ cỏ xanh nuôi lớn côn trùng.
Nuôi lớn đàn bò. Nuôi lớn đàn trâu.
Nuôi lớn loài người nghèo khốn. Nuôi lớn tuổi thơ chóng khôn. Trên từng đống rác. Nắng hè đốt cháy lưng ai. Và nuôi lớn tiếng dế đêm trường rên rỉ. Nuôi lớn tuổi đời của từng bước chân. Lối mòn. Những vệt nắng. Đốt cháy thời gian.
14.
Mây trên ngàn. Gió trên sao. Nắng lao xao.
Đỉnh núi cao. Đón ánh sáng. Lũ côn trùng rên rỉ dưới chân. Cội thông già. Bên sườn đá. Đón gió ngàn. Năm tháng đợi chờ. Mù sương. Phủ lấp. Hạt bụi. Chân thân.
15.
Từ trên cao. Nhìn xuống thấp.
Con đường cong, thẳng, dọc, ngang. Nếp nhăn mặt mũi. Tàn phá. Thời gian. Thành tóc bạc. Sương pha. Búa rìu. Chém chặt. Chết mòn năm tháng. Tuổi ấu thơ. Tuổi măng tơ vòi vĩnh. Uống từng hạt sữa. Lớn theo thời gian. Tuổi già nua. Tuổi tóc bạc. Tuổi hao gầy. Tuổi chống gậy đi vào nghĩa trang. Nằm mơ một thời dĩ vãng.
16.
Mùa thu. Lá vàng. Chập chùng. Ngun ngút.
Rừng phong. Tô điểm đất trời một gia tài thi vị. Cho thi nhân. Mặc khách. Xông ướp hương thơ. Dật dờ từng loại ngôn ngữ. Chữ nghĩa phiêu bồng, để hát, để ca lời thơ em viết:
Mây trời phủ rừng phong
Dệt thành dòng tơ lụa
Em đem về may áo
Cho Mẹ già đêm đông.
17.
Buổi sáng uống trà. Hương trà bay.
Xác trà rã. Nước trà đậm Bình trà ấm. Giữa chốn trần gian, làm tươi tỉnh người thưởng thức. Thiền trà nơi tịnh thất Đạt Ma. Sương pha núi rừng. Vẽ thành bức tranh thiên nhiên cúng Phật. Phật nơi đây. Phật trong lòng. Phật có khắp đông tây.
18.
Đàn kiến bò quanh. Trên phiến đá.
Thành vết mòn. Định lực của tâm.
Thành vết mòn thói quen ý thức. Tạo thành nghiệp dắt dẫn tâm đi. Vòng luân hồi vô tận. Nhặt khoan. Tiếng thở thì thầm. Loanh quanh trong biển trầm luân.
19.
Khói từ sông. Sóng từ nước. Bốc cao.
Mờ không gian, cho dòng suối reo. Làm tươi mát. Lá hoa. Đất lành. Mầu mỡ. Tưới tẩm hạt mầm cho xanh. Thêm tươi. Dâng đời bằng đôi tay đẹp. Đôi tay Bồ Tát hiến dâng.
20.
Người nằm xuống. Ta ngồi đây.
Nghe người hát. Hát bài Đạo Ca.
Lời ca thánh thiện. Lời ca từ nguồn. Lời ca miên man. Lời ca cho đời. Hương hoa sức sống. No tròn một đời lưu vong.
21.
Trẻ thơ. Tâm hồn mầu nhiệm. Ý thức sống được khơi dậy từ tâm hồn vốn thiện. Huyền hoặc. Man nhiên. Như đôi tay búp măng. Như ánh mắt hạt huyền. Như đôi má búng sữa. Như con đường bào mòn bởi tay chân.
22.
Nắng táp vách tường rêu. Dế mèn nơi hẻm đá.
Đứng ngóng mây trời. Bềnh bồng. Vô định. Thời gian. Không gian. Bọt vỡ đầu ghềnh.
Chìm sâu đáy nước. Chôn chặt đời tôi trên đỉnh đồi gió hú.
23.
Con đường mòn. Theo lối cũ. Dẫn người về.
Thăm lại chốn xưa. Nhiều kỷ niệm buồn của tuổi măng tơ. Tuổi thơ. Dưới túp lều tranh. Bên dòng sông nhỏ. Bắc cầu qua mương. Qua ngôi nhà nhỏ. Nơi bìa rừng. Khóm tre xanh. Giàn bí đỏ. Bỏ ngỏ tự thuở nào. Con mương trước ngõ.
24.
Chớp mắt chào đời. Làm thân người khổ.
Sống hôm nay. Ngưỡng vọng phương trời. Những viên đá cuội. Nằm chờ rêu xanh. Khỏa lấp. Mỏi mòn. Thi gan tuế nguyệt. Nguyệt lặn đầu non. Trăng tròn mười sáu. Kiếp người lận đận. Trôi qua.
25.
Đỉnh núi cao. Nuôi lớn cây xanh.
Xanh đời người non trẻ.
Ngày hai buổi. Đến trường. Đọc. Lời kinh. Siêu độ. Nguyện cầu. Tri thức cỏn con. Như tâm hồn thánh thiện. Nguyện cầu. Hoa lá thêm xinh. Cho đời thêm tươi thắm. Cho bình minh rạng rỡ. Lui dần. Hoàng hôn tắt.
26.
Từng tam cấp. Dẫn bước chân.
Sư già mỏi gối. Ngồi đợi chờ.
Con ốc đi qua. Lưu lại vết tích bọt bèo. Từ thân thể. Dáng điệu từ hòa. Sư già nhìn nó. Thầm nguyện rằng thoát kiếp dã sinh.
27.
Luống cải xanh. Phơi mình trong nắng mới.
Tươi mát tình người.
Nuôi lớn đàn con. Gầy gò thấp thỏm. Ngóng về tương lai. Một đời trăn trở. Như hình bóng chong vong. Người chống gậy qua triền núi. Mỏi mòn bằng đôi chân thô.
28.
Tượng Phật ngồi. Thiên thu trên đỉnh núi.
Biểu tượng của người giác ngộ. Pháp thân tồn tục. Hiện hữu. Trong tôi. Sớm chiều bái vọng. Lòng thành như đám tường vân. Cúi đầu. Sụp lạy. Thời gian. Vô lượng kiếp.
29.
Ngôi chùa cổ. Tiếng chuông khuya.
Ru đời ngon giấc. Tỉnh cơn mê.
Xoay tâm bồ đề. Lối về. Người tự đi. Đôi chân giác ngộ. Hóa độ muôn loài. Chứng đắc tự thân.
30.
Lời Sư dạy. Trên bục giảng
Qua bao chặng đường nghiệt ngã.
Làm bạc mái tóc. Làm phai đôi môi. Gìn giữ. Kỷ niệm vuông tròn. Một đời học Tăng.
31.
Sư già ngồi gõ máy. Tách cà phê cạn dần.
Vai gầy. Xương xẩu. Nhô cao vầng trán rộng. Hai hố mắt thẳm sâu. Chứa đựng dòng tri thức vô bờ. Phá vỡ. Xô dạt. Bóng đêm. Muôn trùng từ vô lượng kiếp.
32.
Từng bước chân. Bách bộ. Theo triền núi.
Đếm hạt sỏi. Vãi tung. Đó đây. Lăn tròn năm tháng. Hình hãi vụn vỡ. Điểm đầu. Ghềnh đá cheo leo. Qua sườn đèo. Mây giăng phủ. Thấp thoáng bước người đi.
33.
Giở trang kinh đọc. Lời dạy. Hải triều âm.
Thời Oai Âm Vương Phật. Thời Nhiên Đăng Phật. Hạt giống hãy còn đó. Chờ kiếp lai sinh. Một sáng bình minh. Nghe tiếng khóc. Em bé chào đời. Trông bé thông minh. Hạt giống Phật, tựa nên hình. Phật sơ sinh.
34.
Lá bồ đề. Rụng trước sân chùa.
Cầm chổi quét. Nghe chim kêu.
Vọng từ xa. Miền tịch liêu. Như dấu ấn. In tròn trên mái đầu xanh. Thời làm điệu. Điệu không thuộc kinh. Điệu im lìm ngủ. Suốt đêm muỗi cắn. Điệu vẫn làm thinh. Thương chúng sinh. Điệu cầu nguyện.
35.
Con muỗi vo ve. Ngoài khung mùng bẩn.
Trong tâm vo ve. Thời gian hành điệu. Giữa chánh điện chùa. Ngủ say qua đêm. Lăn tròn trên nền gạch. Gạch đỡ chân điệu. Gạch níu đôi tay. Nền gạch chùa. Bây giờ còn nhớ. Của thuở lên mười. Tâm điệu ngây thơ.
36.
Quảy trên vai. Đôi dép cỏ.
Chiếc áo bạc màu. Sương gió.
Nhìn lại dặm đường. Bụi mờ. Khỏa lấp. Một kiếp rong chơi. Như từ thuở nọ. Đại nguyện hóa thân. Đi vào cát bụi. Được gần gũi với vạn hình hài. Ngửa mặt ngắm trăng.
37.
Dậy đi chú tiểu. Giờ công phu khuya.
Lăng Nghiêm năm đệ. Thập chú nằm lòng. Như thể tương chao hai buổi. Nuôi lớn chú tiểu thỉnh chuông. Trên đồi tháp cổ. Chú tiểu dộng chuông. Chú tiểu buồn. Con người mê muội. Nghe tiếng chuông. Lòng chẳng buông phiền não. Triền miên trong tăm tối.
38.
Từ vực thẳm. Suốt rặng dừa xanh.
Đến chân trời. Bích ngọc. Xanh biếc. Đại dương muôn trùng. Rì rào sóng vỗ. Chiều khơi lộng gió. Gió cuốn mây bay. Mây bay về đâu. Bay qua đỉnh đầu. Qua cánh đồng nâu. Qua chiếc cầu. Qua bao đêm thâu. Quên mình theo gió. Gió nương mây. Đùa mây về chốn xa xăm.
39.
Rặng bồ đề. Rễ sâu. Bóng cả. Thân sù sì.
Đánh dấu. Một thời công phu. Người Sư già. Ngoại cửu tuần. Ngồi lẫn chuỗi hạt. Trên chiếc chõng tre. Cạnh nhà thiền. Hơn tám mươi năm. Để thấy. Bao lớp người qua. Giờ còn lại bóng Sư già. Dưới mái chùa cổ kính. Nhìn đời, đôi mắt từ bi.
40.
Chiêm ngưỡng đức Bổn Sư. Miệng mỉm cười.
Khoanh chân kiết già. Lưng thẳng. Quán hoa sen. Niên hoa vi tiếu. Phú chúc nhãn tạng. Đại Ca Diếp. Truyền trao. Gia tài giác ngộ. Ngộ chân tâm. Làm Sơ Tổ. Dòng Thiền Ấn Độ. Tiếp nối từ đây. Hiển bày công huân tu tập.
41.
Ánh đèn vàng. Soi dung nhan đấng Từ Bi.
Nguyền muôn kiếp. Cho thân cận. Vượt vòng tử sinh. Độ mình. Độ chúng sinh. Con đường Bồ Tát. Thề hy sinh vì đời. Làm đẹp như hoa.
42.
Tịch lặng. Đấng Đại Hùng. Thương chúng sinh. Rải tâm Từ. Vô lượng kiếp. Độ muôn loài. Thoát vòng khổ đau. Chân thân. Hiện hữu. Khứ lai vô cầu. Từ vực sâu. Thí thân cho cọp. Mây trắng cúi đầu. Tỏ niềm thương đau.
43.
Đôi mắt, Bồ Tát. Đôi tay, Tổ Sư. Hạnh nguyện cứu đời. Trầm luân vạn đại. Vô thủy. Vô chung. Con đường hóa độ. Vô lượng. Vô tận. Vô cùng. Vô biên. Vô số. Vô kiếp. Chúng sinh khắp miền. Hữu duyên. Vô duyên. Đồng về bờ giác. Giác ngộ tâm nguyên. Thoát khổ luân hồi.
44.
Con đường Bồ Tát đi có nhiều bông hoa tươi đẹp. Có nhiều loài chim ca hót líu lo. Nghinh đón bước chân. Cúng dường vô lượng. Những vì tinh tú. Những trăng. Những sao. Những trái tim hồng. Những dòng máu đỏ. Tuôn chảy trong thân. Thân làm Bồ Tát. Hát ca giữa đời. Nghêu ngao đây đó. Mặc cho đời phủi mặt, quay lưng. Bồ Tát tưởng chừng ôm hết chúng sinh vào đôi tay Bồ Tát.
45.
Dàn bầu của chùa. Trái ngọt. Lá xanh.
Xanh đời người tu. Tấm lòng phụng sự. Hiến dâng cho hết. Dâng trọn lòng thành. Như từng bát canh. Ngọt lành người nấu. Vô tâm. Vô tư. Hữu duyên Phật thành.
46.
Nhà văn hóa. Chợt xếp bút nghiên.
Xếp lời dịu hiền. Xếp kín đôi môi.
Giảng kinh. Giảng luận. Giảng lời Phật dạy. Làm việc hiền nhân. Lưu lại cho đời. Hàng ngàn năm nữa. Để từ đó. Cuộc đời của bậc Cha Ông. Dày công xây đắp. Con đường hoằng hóa Tổ Tông.
47.
Trên đồi thông. Từng bước chân dẫm mòn.
Thân thể một chiếc lá khô. Chợt biến thành linh thiêng. Mộng mị. Nằm hứng sương khuya. Ngắm ánh sao rơi. Thấy đời mình cỏn con. Phù phiếm. Như vỏ ốc khô. Lăn tròn bãi cát. Trôi theo bọt biển. Cuối bãi. Đầu ghềnh. Tan trong đại dương.
48.Người đi đâu, để tôi cưu mang hình hài dằng dặc. Tiếng chân khua, bụi phấn còn mờ. Lớp ảo ảnh, phủ dày vạt áo. Cuốn lại thành, dệt lụa trăng mơ. Rồi từ đó, bóng người thấp thoáng. Trên bờ đê, hay cõi rừng thơ. Trường Sơn. Đỉnh núi cao. Đại dương. Muối mặn. Giữ đôi chân người, in dấu bâng quơ.
49.
Xõa tóc nằm chờ trăng sáng. Xuyên qua mành ảnh tượng nên thơ.Người họa sĩ ủ tờ giấy trắng. Nét mực mờ chấm phá khung tơ. Điểm chấm trắng đen vung vãi. Loáng thoáng trông ảnh tượng mờ mờ. Khép cửa lại nhốt hình hài đó. Nhìn thật sâu trăng tỏ. Vô bờ. Giấc mơ. Trăng tròn mười sáu.
50.
Trọn năm cặm cụi. Dịch từng lời kinh.
Đèn khuya một bóng. Lung linh dáng người. Tiếng khóc câu cười. Chẳng làm ai tỉnh. Lời kinh vượt thoát. Biển trầm sông mê. Tâm Bồ Đề tỏ vằng vặc. Trí Bát Nhã hằng rạng soi. Lợi ích cho đời. Tương lai làm Phật.
(tưởng niệm về Ôn Minh Châu – Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1982)
51.
Lời Ôn giảng kinh. Ấm như nhật nguyệt.
Dáng từ tự tại. Tựa bước tượng vương. Ôn đi trên mọi nẻo đường. Gieo rắc tình thương cho hàng hậu học. Học bài xử thế Ôn để nơi con. Sắt son trong lòng. Nghìn năm không quên.
(tưởng niệm về Ôn Từ Đàm – Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, 1973)
52.
Chống gậy Ôn qua triền núi. Đôi dép mòn ba tháng an cư. Con ốc nhỏ nằm bên bờ suối. Dõi nhìn theo dáng điệu hiền từ. Gập ghềnh sỏi đá. Con đường chân như. Ôn đi một sớm phù hư. Ôn về Cốc núi ẩn cư tu hành.
(tưởng niệm về Ôn Đỗng Minh – Chùa Tỉnh Hội Nha Trang, 1973)
53.
Trái tim Ôn nồng ấm. Nuôi lớn đàn con.
Chọn người làm Phật. Phật đất. Phật đồng. Phật trong tự tánh. Tánh thiện. Tánh lành. Tánh như hư không. Ôn dang đôi tay ôm tròn tuổi trẻ. Tuổi già lụn tàn. Măng mọc đầu non. Ước mộng vuông tròn. Ôn về với Phật.
(tưởng niệm về Ôn Già Lam – Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, 1973)
54.
Đêm khuya Ôn lạy Phật. Từng lời từng lời kinh. Nuôi lớn đàn hậu sinh. Thành Tăng tài cho Đạo. Bước chân Ôn nhẹ dạo. Rạng rỡ ngọn Thiền quynh. Nghiêng mình. Khuynh tâm. Một đời đền đáp. Công Ôn nuôi dưỡng. Sáng tợ trăng rằm.
(tưởng niệm về Ôn Già Lam – Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn, 1980)
55.
Giới luật Ôn nghiêm trì. Sáng sạch như băng tuyết. Đức hạnh ai sánh bì. Cao cao thật tuyệt tuyệt. Ôn đi trước Thiền thất. Ôn ngồi bên hoành phi. Dáng Ôn bất tư nghì. Muôn đời cho hàng con cháu nhớ ghi. Làm Thầy loài người. Tương lai thành Phật.
(tưởng niệm về Ôn Từ Quang – Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, 1970)
56.
Ôn già hơn chín mươi. Còn bắc cơm, nấu cháo. Theo dõi đàn kiến bò. Vứt cho từng miếng bánh. Làm hạnh Bồ Tát hạnh. Hương thơm ngát lòng thành. Tuổi trẻ Ôn là đá. Đá nặng chẳng lung lay. Ôn ở một chỗ này. Cho đến ngày hôm nay. Tuổi già Ôn là núi. Núi đứng sừng sững cao. Sáng che mưa tuổi nào. Chiều ấm lòng con cháu. Chén cơm. Chiếc áo. Ôn tặng đất trời. Thõng tay vào chợ. Thăm người thế gian.
(tưởng niệm về HT Bổn Sư Thích Chí Tín – Chùa Tỉnh Hội Nha Trang, 1966)
57.
Thiền thất Ôn nhẹ bước. Tam cấp dẫn xuống đường. Ướp hương trà thơm ngát. Bát Nhã tâm diệu thường. Cốc Ôn ở am mây. Che phủ những tàng cây. Võng Ôn đan bằng dây. Đưa tháng ngày an lạc. Tâm Ôn như mây bạc. Bềnh bồng bay bay bay.
(tưởng niệm về Ôn Trí Nghiêm – Chùa Tỉnh Hội Nha Trang, 1967)
58.
Ôn như ánh Trăng rằm. Dung nhan Ôn đẹp lạ.
Giám sự một lòng thành. Qua bao nhiêu mùa hạ. Ve sầu kêu rỉ rả. Bát Nhã tát bà ha. Ngày tháng cứ trôi qua. Ôn là quả núi già. Kiên cố và vững chãi. Độ người số hằng sa. Nhất niệm Di Đà. Ôn về với Phật.
(tưởng niệm về Ôn Trừng San – Giám Sự PHV Hải Đức Nha Trang, 1970)
59.
Tôi mơ trăng mười sáu. Rọi trên đồng lúa thơm. Quê hương Việt Nam còn. Trái tim nồng dân tộc. Lạc Hồng. Văn hiến. Con cháu Rồng Tiên. Mẹ hiền Quan Âm. Hộ dân. Hộ nước. Nước non vững bền. Đầu thôn đến cuối thôn. Giọng hò cô lái chiều hôm. Ôm lòng đất mẹ, nức hồn âu ca. Trẻ già. Người người vui sống. Sống cảnh thái hòa. Núi là non. Gấm là vóc. Quê cha thanh bình.
60.
Cây đa. Bến nước. Con đò.
Dệt thành trang Sử Việt.
Mấy nghìn năm văn hiến, nuôi lớn dân tôi.
À ơi! Con nước qua cầu
Đạo vàng thơm ngát, trên đầu Việt Nam
Quốc Tổ. Giang Sơn.
Con Hồng cháu Lạc.
Ngẩng cao đầu, hai tiếng hát Việt Nam.
61.
Dòng nước sông Hương chở chiếc thuyền nan
Xuôi ngược tháng năm người dân xứ Huế
Lên thăm Thiên Mụ lòng chẳng muốn về
Lời nguyền câu thề ngàn năm không quên.
62.
Người cúi xuống chum. Múc gáo nước lạnh.
Tưới những giò lan. Đơm hoa dâng đời. Đơm hương cúng Phật. Người lui về thiền thất. Dịch Kinh. Nắng buổi bình minh. Rọi vào cửa sổ. Soi sáng tượng hình. Tượng hình thiên thu.
63.
Bên chiếc dương cầm. Tấu lên lời nhạc.
Lời ca tiếng hát. Tựa tiếng Kinh cầu. Dáng người ngồi thư thái. Một mái tóc hoa râm. Một vầng trán đậm. Soi bóng cha lành. Tiếng đàn dương cầm. Trầm bổng. Du dương như mộng. Thả hồn theo gió. Gió cuốn đàn câm. Đêm khuya bên chiếc dương cầm. Âm ba trầm bổng hư không vọng về. Đổ dài một bóng đơn côi. Đàn rơi chỏi nhịp. Tái tê giọt sầu.
64.
Một chiếc lưng còng. Chảy dài năm tháng.
Bên chồng sách cũ. Bên Đại Tạng Kinh. Ngọn đèn lung linh. Khi mờ khi tỏ. Dáng người nho nhỏ. Đôi tay. Khối óc. Trái tim. Dòng máu đỏ. Từ thuở khai sinh. Mẹ dạy đọc kinh. Lớn khôn từ đó. Tư chất thông minh. Trí tuệ trác việt. Một trời thơ văn. Hố cùng mộ tuyệt.
65.
Nét mực nhòa trang giấy. Nến tàn rạng đêm đông. Căn phòng người một bóng. Thâu đêm đêm chốc mồng. Tạng Kinh chong mắt đọc. Lời Kinh vọng hư không. Bát Nhã Ba La Mật. Tâm thông tâm chẳng thông. Ngọn đèn hồng chồng sách cũ. Đêm đông muôn trùng.
66.
Người quảy gánh đời trên đôi vai. Đi bên lề lịch sử. Dưới cơn mưa thế kỷ. Dội xuống nón tàn phai. Một hạt nước. Hai hạt nước lăn dài. Trên quê cha đổ nát. Tuổi thơ bên cồn cát. Vạch rác tìm sinh nhai. Miệt mài nơi phố thị. Như bông hoa đùa giỡn. Tuổi thơ. Mơ về một tương lai mờ mịt.
67.
Hương rừng. Mưa đêm. Thành nguồn thác lũ.
Từng gốc thông già. Từng mỏm đá cao. Chứng nhân chặng đường lịch sử. Dạt dào. Đau nhức tim gan. Mẹ của đàn con. Không nuôi khôn lớn. Cưu mang núm ruột. Tự thuở cơ hàn. Lặn lội suối ngàn. Cất cao đôi tay. Đẩy lùi lịch sử. Khổ nạn, dã man.
68.
Đạo pháp Việt Nam. Nuôi lớn trái tim dân tộc. Trái tim nồng. Dòng máu đỏ. Tình tự quê hương. Gói trọn miềm thương. Cho hồn Việt tộc. Tuôn chảy mấy nghìn năm. Thành dòng sông lịch sử giống nòi. Hiển hách. Oai hùng trái tim ấy. Dòng máu quật cường. Dòng máu cha ông. Xây dựng non sông. Máu xương, tuôn chảy ruộng đồng. Làm xanh lúa mạ. Cánh đồng Việt Nam.
69.
Tôi yêu tình người. Như yêu tự thân. Yêu từng tha nhân. Làn da sạm nắng. Yêu từng tiếng khóc. Tiếng thở. Tiếng cười. Khi còn nằm nôi. Nay giờ đã lớn. Đời như ánh nắng. Nuôi lớn muôn hoa. Thấy người cay đắng. Nuôi lòng nhẫn nhục. Hiền hòa. Chắp tay búp hoa. Dâng lên cúng Phật. Dâng cúng mọi người. An vui chân thật.
70.
Tôi đi qua, từ cánh đồng nâu. Từ đồi núi thắm. Từng rặng thông reo. Núi. Đèo. Chập chùng. Biển sâu. Sông rộng. Quê hương nước mặn. Đồng chua. Có từng rặng dừa. Nước xanh. Cát trắng. Dân lành lam lũ. Một nắng. Hai sương. Sông đời nhiễu nhương. Dân miền hoang dã. Bươn bả đôi tay. Làm nên làng xóm. Dựng vườn. Xây ruộng bằng đôi chân dầy. Vỡ luống đất. Đạp luống cày. Tưới lên từng giọt mồ hôi mặn nồng.
71.
Hy vọng một mai tôi chết. Mọi người có được nụ cười. Vì cuộc sống hôm nay đã hết lòng phụng sự. Cho đi bằng đôi tay. Dâng đời bằng ý đẹp. Vun quén sự sống của đất trời. Thêm hương. Thêm sắc. Tô thắm màu thiên thanh. Dịu hiền đôi tay Phật. Nâng niu đất trời. Dệt thành tơ lụa đâu miên.
72.
Lời thơ thành lời Kinh. Nguyện cầu nhân sinh.
Nguyện cầu thế giới. Nuôi tâm hòa bình. Đem sức bình sinh. Cho tình người thêm ấm. Ấm đôi môi. Ấm đôi tay. Ấm con tim. Dòng máu nóng. Chung tình Việt Nam.
73.
Đạo vàng tỏa sáng. Trên đỉnh non cao.
Tình người Việt Nam. Dạt dào muôn thuở. Từng bước chân vậm vỡ. Chim Việt cành Nam. Tạo thành dòng sông. Tuôn chảy miên man. Giấc mơ tìm than. Lên non đốn củi. Than đốt tim Tỉ Can. Tim cháy tan hoang. Than đốt tim Việt Nam. Sáng lạn ngàn đời. Màu sáng Việt Nam.
74.
Tôi đi trên bãi cát. Lưu lại dấu chân mòn.
Dấu chân nằm chờ trăng. Trăng treo trên đỉnh non. Cát. Trăng. Đỉnh non. Biển cả. Như hồn thơ dâng trọn cho đời. Cho chiều về biển khơi lộng gió. Triết lý của thơ là đó. Im lặng. Vô ngôn.
75.
Trên dòng sông xưa. Tôi ngồi đợi chờ.
Một mái tóc xanh. Phủi sạch đời mình. Sạch đời vấn vương. Từ vô lượng kiếp. Kiếp người phù du. Mộng kiếp người tu. Ru hồn sinh tử. Bên bờ sông xưa. Từ tuổi măng tơ. Đợi chờ. Nước trôi cuốn tóc. Tóc xuôi dòng. Tóc về đại dương.
76.
Đồi thông trong thành phố. Cho bóng mát dân lành. Rõ hạt sương đầu cành. Làm tươi mát muôn hoa. Thấm nhuận. Thái hòa. Bài ca an lạc. Trên cành chim hót. Dưới gầm cá bơi. Thảnh thơi như người dân thành phố. Có đồi thông xanh. Gọi thành phố mộng. Từng cơn gió lộng. Thổi từ biển khơi. Đầu ghềnh chơi vơi. Neo chiếc thuyền từ. Độ người trầm luân.
77.
Những Bồ Tát hóa thân. Làm bông hoa tươi đẹp. Dâng trọn tấm lòng thành. Nam Mô. Nam Mô Phật. Con nguyện chừa sân si. Nguyện đi trên đường Giới, Định, Tuệ. Một mực nhớ ghi. Văn, Tư, Tu. Đạo Từ Bi. Tập hành hỷ xả. Bất tư nghì. Tu chứng đạo. Đấng Mâu Ni.
78.
Hóa thân vào đời. Nguyện làm cát bụi.
Cát bụi miệt mài. Theo chân Bồ Tát. Qua vạn hình hài. Hà sa trần sát.
79.
Con lạy đấng Thế Tôn. Lạy trái tim giác ngộ.
Lạy tánh đức vì đời. Dấn thân người hóa độ. Dù qua bao gian khổ. Vẫn tỏa sáng lòng từ. Nhất niệm chân như. Lồ lộ. Phu già.
80.
Xua đi hình bóng tôi thương.
Bờ vai nhẵn nhụi bụi đường gót chân.
Một mai thoát kiếp phù vân.
Trăng là trăng nước là nước trong ngần đầu non.
81.
Bóng người trên đỉnh núi. Dõi mắt nhìn phương xa. Sơn hà cùng đại địa. Thầm nguyện Tát bà ha. Trôi lăn dòng sinh tử. Nguyện làm kẻ không nhà. Dưới gốc cây đêm qua. Thiền định từng sát na. Tinh tú giải ngân hà. Chứng tri đạo giác tha.
82.
Tôi đi từ thuở ban sơ. Tôi về tìm lại giấc mơ
dị thường. Bờ sinh bờ tử đôi đường. Vương vương khóm cỏ giọt sương cuối trời. Mù khơi cõi mộng. Trong lòng phù sinh.
83.
Người nằm xuống để cho đời im lặng
Ủ hình hài nơi lòng đất Mẹ yêu.
Ngày hai buổi tiếng Kinh chiều vang vọng.
Vạn Hạnh buồn đưa tiễn bậc cao siêu.
84.
Giới định chân hương. Mật hạnh kiết tường.
Bát Nhã nan lương.
Bồ Đề tâm nhất hướng. Sa giới biến mãn thập phương. Tĩnh tọa Bồ đề tòa. Quy hướng pháp trung vương.
85.
Một đóa hoa sen. Mọc lên từ bùn.
Dâng hương. Dâng sắc. Cho đời thêm xinh. Nụ hoa lung linh. Dáng hoa diễm kiều.
Lá hoa trải mình. Khỏa lấp hôi tanh.
86.
Ôn đi như cánh vạc khuya
Ôn về như thể gió đưa đầu cành
Ngàn năm sương khói xây thành.
Thương Ôn như ánh trăng rằm quê hương.
(tưởng niệm Ôn Trí Chơn – nhà Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục – Hải ngoại, 2006)
87.Ôn đi một bóng. Ôn về cô liêu. Cánh vạc ăn đêm. Cảnh vật đìu hiu. tâm Ôn bất động. Giữa cảnh nắng sớm, mưa chiều. Thiền thất hậu liêu. Ôn ngồi dịch sách. Sân ga xe buýt. Ôn an lạc nhiều. Vì, hoằng pháp là đền ơn chư Phật. Văn hóa bảo tồn. Phật Việt còn ghi. Giáo dục dạy người thánh thiện. Ăn chay. Niệm Phật. Lễ nghi.
(tưởng niệm công hạnh Ôn Trí Chơn – suốt đời hiến dâng, phụng sự)
88.
Tình thương yêu bên cạnh người cao cả.
Biết hy sinh, biết buông xả cho đời
Sống an bình không rộn rã tôi ơi
Nguyền hóa độ, dâng đời người hóa độ.
89.
Nằm yên bên chồng sách. Xoa mái tóc hoa râm. Diễm kiều người quý phái. Nhờ biết tâm có Phật. Nhờ tánh đức hiền lành. Nhờ hiểu biết tử sinh. Một đời nguyền hộ pháp. Cho trọn kiếp lai sinh.
90.
Trăng lên xõa mái tóc huyền. Che mát nhân thiên, làm con thuyền đưa khách. Khách sang sông, khách quay gót ra đi. Sông ở lại, sông lững lờ dòng nước. Xuôi ngược. Đôi bờ. Người đi. Kẻ ở.
91.
Nụ hôn trên má người gầy. Chấp đôi tay.
Thành kính. Hầu đấng Thế Tôn. Bậc xả phú cầu bần. Xả thân cầu đạo. Tôn giả Đại Ca Diếp. Một đời đắp y phấn tảo. Vui cảnh tu thân. Nguyện hiến dâng cho người sang cả.
92.
Phật bụi đời. Bụi đâu làm lấm Phật.
Bụi dính mái tóc. Bụi lăn xuống chân. Bụi trở về cát bụi. Phật vẫn là Phật. Phật trở về pháp thân.
93.
Phật đến thế gian này. Do hạnh nguyện hóa độ. Độ mọi loài chúng sinh. Thoát kiếp khổ. Chuyển kiếp mê. Đến bờ giác. Giác ngộ rồi. Trở lại độ sinh. Suốt một hành trình. Làm Bồ Tát hạnh. Làm hoa làm cành. Làm hạnh nguyện lợi tha.
94.
Bụi cũng sẽ làm Phật. Nếu bụi biết tu trì.
Sân si và tham chấp. Đường ai người nấy đi. Bụi hôm nay là bụi. Bụi mai sau là Phật. Người ơi thường nhớ ghi.
95.
Bụi không cần làm Phật. Phật cũng chẳng vướng bụi. Bụi Phật thường nhất như. Tánh Phật và tánh bụi. Chẳng phải thường lau chùi. Vì tánh Phật là bụi. Và tánh bụi là Phật. Cả hai thường tới lui.
96.
Mặt trời mọc phương Đông. Ánh sáng tia nắng hồng. Làm rạng rỡ cỏ bông. Trên đồng thơm lúa chín. Thiên nhiên. Sức sống. Từng cánh cò bay. Làm thơm lay. Hương trà, hoa bưởi. Người dân quê sẵn ấm tình người. Bao rặng tre xanh. Khói lam xây thành. Chiều về, dưới mái nhà tranh. Quanh nồi khoai luộc. Bốc khói ngon lành.
97.
Ôn đi giữa cuộc vô thường
Sắc hương đang thắm nhụy mường thêm xinh
Ngồi đây mà kể truyện tình
Tình mình, tình đạo, tình người với Ôn
Biển đời lắm nỗi nhặt khoan
Con đò tách bến còn vương lối về
Ngàn năm lỗi hẹn câu thề
Trông Ôn quảy dép đề huề gió trăng
(tưởng niệm Ôn Thuyền Ấn – 2002)
98.
Hạt cát cuốn tròn theo gió. Lăn dài trên bãi biển. Cát trắng. Biển xanh. Tinh thể của đất trời. Gấm hoa từ thuở tinh khôi. Tiếng khóc trong nôi. Chào đời em bé. Mẹ nuôi bé lớn. Bé tắm biển xanh. Bé vun đụn cát. Làm nhà bé ở. Thời gian tạm bợ. Bé thành biển xanh. Xanh ngát trùng khơi. Xanh đời mộng biển. Hải hồ, chuyện kể thần tiên.
99.
Cho tôi xin một hạt bụi. Bỏ vào túi áo rong chơi. Cho tôi xin một hạt nước. Dâng đời tươi thắm nụ hoa. Cho tôi xin một hình hài. Trầm luân biển đời sinh tử. Cho tôi xin từng mảnh đất. Chôn vùi một kiếp điêu linh. Khỏa lấp ngàn kiếp sau. Một đời lãng tử.
100.
Tôi ngồi đây ôn lại chuyện xưa. Chuyện thời gian làm điệu. Chuyện Mẹ ru con đêm mưa. Tôi ngồi đây ôn lại chuyện mình. Chuyện thời thơ ấu xinh xinh. Chuyện làm chiếc ghe giấy. Thả trôi theo dòng nước trên quê mình. Tôi ngồi đây viết lại chuyện tình. Tình Mẹ nuôi con khi trời bình minh.
Mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt
Mẹ ru con, ru hoài ngàn năm
Mẹ dạy con, bằng lời đầm ấm
Mẹ dạy hoài, dạy mãi trăm năm
Con lớn khôn thì Mẹ mỏi mòn
Lưng Mẹ còng. Tóc Mẹ bạc.
Mắt Mẹ mờ. Trán Mẹ chon von.
Con thành người thì Mẹ không còn.
Hôm nay đây, con ngồi nhớ Mẹ. Hình bóng người sống lại trong con. Như trăng đầu non. Trăng tròn mười sáu. Tình thương Mẹ vuông tròn đời con. Bây giờ con đi tìm Mẹ! Mẹ ở đâu? Con tìm nơi đâu? Vượt biển sâu. Lòng đại dương Mẹ sống. Tòa lâu đài làm bằng ánh lưu ly. Mẹ ra đi trên đỉnh non cao. Con tìm Mẹ. Dáng gầy hư hao. Con quỳ lạy Mẹ. Mẹ mãi sống đời với con. Dầu trên đỉnh non. Hay lòng đất lạnh. Dầu trong hiu quạnh. Hay chốn nắng mưa. Con nguyền bên Mẹ. Đời đời với con.
101.
Trí tuệ sáng ngời trong khối óc. Ánh nắng sáng ngời trong không gian. Trí tuệ nuôi lớn đời sống tâm linh. Tâm linh giác ngộ. Ánh nắng nuôi lớn vạn vật trên mặt đất. Người có trí tuệ. Người siêu thế gian.
102.
Vô thường trên chiếc lá
Lời giảng kinh hôm qua
Giữa mùa thu kiêu sa
Chiếc áo màu sặc sỡ
Xanh vàng đà chớm nở
Dâng đất trời thiền hoa.
103.
Tôi yêu người trong sương. Dáng dấp trông lạ thường. Tĩnh tọa trong trời đất. Uy nghi thật khôn lường. Từng bước chân người đi. Khỏa mờ con đường bụi. Bụi đường vương đôi mi. Vương chiếc áo vàng tơ. Người đi gầy sự sống. Vô thường trong chơn thường.
104.
Tình yêu đâm chồi trên những cành khô.
Kết nụ cho đời tươi đẹp. Đơm bông cho đời thêm xinh. Từ đó làm mạch nguồn cho Bồ Tát hóa thân vào dòng sông sinh tử, để cùng chúng sinh tạo dựng lòng Từ. Thiết lập tâm Bi. Cho sự sống thêm nhiều ý nghĩa cao quý, dễ thương. Như nụ hoa hồng buổi sáng tinh mơ. Nơi vườn hoa giác ngộ.
105.
Buổi sáng tinh sương. Chuyến bay British Airlines đi Anh quốc. Qua đêm mọi người tỉnh giấc. Buổi sáng trên thế gian. Mọi loài thức giấc qua một đêm yên lành. Chợt thấy mình hiện hữu. Dưới ánh nắng mặt trời. Nơi hoang vu mặt đất. Dưới lòng hố thẳm. Trên đỉnh non cao. Từ vô lượng kiếp. Vuốt mặt thấy mình bâng quơ.
106.
Triết lý của sự sống là mở mắt nhìn thật rõ.
Rõ từng hạt bụi ngủ ngày. Rõ từng viên sỏi ngủ đêm. Rõ từng dấu chân nhẹ bước. Rõ từng hơi thở mong manh. Rõ từng suy tư gầy guộc. Như mảnh tơ trời giăng giăng. Mơ mơ. Mờ mờ. Ảo ảnh. Phù du.
107.
Ánh mây đầu núi. Con người cặm cụi dưới chân. Vỡ những luống đất nâu. Cho đời thêm thắm. Cho lúa mạ thêm xanh. Màu xanh hy vọng. Xanh trên lối mòn. Xanh trên rừng thẳm. Xanh nơi biển rộng. Trùng dương bát ngát. Gió mát ruộng đồng. Màu xanh người dân.
108.
Lời kinh cầu nguyện hằng sa. Vang động thế giới ngân hà. Tam thiên thế giới ta bà hiện thân. Kiếp người như đám phù vân. Hãy nương tiếng kệ thoát lần nghiệp duyên. Một lời nguyền Hộ pháp Cửu trụ thế gian. Tan não phiền. Độ tận chúng sanh. Đền ơn chư Phật. Hóa thân độ đời.
109.
Người đi cho nắng lên cao
Người về cho hạt mưa rào đầu thu
Nghìn năm sương khói phù hư
Hình hài một bóng đèn lu chóng tàn
Lời kinh động ánh trăng vàng
Cánh chim lẻ bóng trăng ngàn vỡ đôi.
110.
Vườn cải sau nhà
Khi người về thăm lại chốn xưa
Liếp dưa bầu bí
Chiếc cầu thệ thủy
Bắc ngang qua hồ
Chậu hoa thược dược
Nụ cúc xinh tươi
Đóa hải đường kiêu sa mỉm cười khi mùa xuân tới
Người em bé nhỏ
Đôi tay gầy năm tháng
Tưới nước bón phân
Cho liếp cải vàng
Tía tô mượt mà
Đó là hình ảnh đậm đà nơi quê hương của Mẹ
Bên vò múc nước tưới bụi rau thơm
Canh chua ngò ôm một thời Mẹ nấu
Hương vị của làng quê Ngoại
Trong đêm trăng thanh
Hoa bưởi đầu cành
Nhánh cau cuối ngõ
Em về thăm lại quê xưa.
111.
Vách chùa rêu phong
Hiên tây xạm nắng
Mấy độ con nước ròng, nước lớn
Người đi kẻ ở
Như trận thu phong
Thổi sạch lá vàng
Ôn đi trên lối hành lang
Dọc đồi, hoa sứ
Từng bước chân nhẹ
An nhiên tự tại
Dẫu cuộc đời thành bại
Chỉ từng bước thảnh thơi
Ôn nguyện vì đời
Hiến dâng tất cả
Làm hạnh hỷ xả
Mặc cho đời áo mão cân đai
Dáng dấp hòa hài
Như sư tử rừng sâu
Tượng vương hồi đầu thị ngạn
Ôn làm lời Sám
Tụng lạy mỗi khuya
Như hạt sương đầm đìa
Nuôi lớn hạt mầm ươm sẵn
Cho đến hôm nay
Hạt mầm Ôn vun quén
Đâm nhánh trổ bông
Thời Ôn đã qua dòng sinh tử
Nhẹ bước phiêu bồng
Ngồi đài sen thượng phẩm
112.
Em đọc những lời thơ
Hay lời ca thiên thu bất tận
Lời ca rằng:
Em nguyện đem thân làm mưa
Mưa cho đời bớt nóng
Em nguyện làm nắng
Nắng cho ấm loài người
Em nguyện làm gió
Gió thổi mát sa mạc
Em nguyện làm cây
Cây xanh tặng đất trời
Em nguyện làm người
Người yêu thương tất cả
Em nguyện làm Phật
Phật độ tận chúng sinh
Lời ca âm thinh
Suối ngưồn tâm thức
Vực sâu hố thẳm
Một đời cưu mang
113.
Nắng ấm trên thành phố người
Nắng ấm trên đỉnh đồi hoang
Nắng ấm trên lối mòn
Dẫn về chốn cũ
Hàng thùy dương rũ bóng
Che mát biển xanh
Từng túp lều tranh
Dệt thành chuỗi mộng
Qua bao lần biến động
Biển là biển
Sông là sông
Như tự thủa nào
Lòng không vướng bận
Cát lăn theo cát
Bèo dạt hoa trôi
Sóng dập gió dồi
Ghềnh hoa bọt trắng
Ngày hứng giọt nắng
Đêm rền biển sâu
Từ thế kỷ nào
Không hoa tuyết nguyệt
Của đất của trời
Của sương của gió
Gió lộng đồi tây
Mưa tuôn trước ngõ
Chặn lối em về
Cuối đường hoa bay.
114.
Cành trúc vương nắng chiều
Mái chùa thêm đìu hiu
Chuông khuya mòn gõ nhịp
Từng giọt buồn cô liêu
Dấu chân in trên lá
Ôn chống gậy Thiền qua
Dáng từ nhè nhẹ bước
Nam Mô A Di Đà
115.
Nắng xuyên cửa sổ
Gió đổ ngoài hiên
Hạt mưa triền miên
Trên vùng đất đỏ
Đàn kiến bò
Xây tổ ấm
Vai người gầy
Chung sức sống
Nghe từng tiếng động đêm khuya
Băng qua đồi núi
Công phu mỗi sáng
Âm vang nhẹ nhàng
Lời kinh đồng vọng
Đánh thức lá hoa
Tỉnh giấc mộng vàng
116.
Luống cày sâu, vỡ lên từng cuộn đất
Cấy nắm mạ xanh, đồng thơm lúa vàng
Mênh mang hai tiếng Việt Nam
Mấy nghìn năm văn hiến
Hạt vàng bay cao
Hương thơm hoa bưởi
Gió lay cành đào
Chiều chiều từng hạt mưa rào
Lũy tre xanh biếc thủa nào quê hương
Dân tộc kiên cường
Qua bao chặng đường lịch sử
Hát tiếng quân ca
Chung tay giữ vững sơn hà
Thanh bình thịnh trị dân nhà an vui.
117.
Tách trà thơm buổi sáng
Trong thiền thất Đạt Ma
Khói quyện hương Bát Nhã
Làn mây bay la đà
Chiếc áo già ca sa
Phất phơ bay trước ngõ
Dáng Ôn người nho nhỏ
Tọa thiền trong đêm qua
Ngọn đèn dầu leo lét
Soi bóng người Sư già
Chuỗi hạt mòn năm tháng
Mỗi ngày một chóng qua
118.
Từng trang kinh buổi sáng
Kim Cang tụng thuộc lòng
Không chuông cũng không mõ
Nghe rõ lời Ôn ca
Di Đà Ôn thường niệm
Xâu chuỗi mòn trên tay
An nhiên và tự tại
Phút giây hiện tại này
Giờ Ôn đã về Tây
Hàng phượng buồn liễu rũ
Hoàng hôn chiều buông phủ
Khắp mọi chốn đó đây
Cội bồ đề trước thất
Gác chuông bạc màu mây
Vắng Ôn niềm thương nhớ
Trong kiếp sống vơi đầy.
119.
Tượng Phật ngồi lâu đời thành Phật cổ
Con đường mòn lên đồi
Rêu phong chen lỗ đổ
Vách đá mái chùa
Nép mình dưới rặng cây cao
Gió thổi lao xao
Hàng cây hoa sứ
Rụng đầy sân chùa
Nếp úa thời gian
Khói hương quyện tỏa
Ánh nến lụn tàn
Vách phên nhện giăng làm màn chắn gió
Ôn ngồi từ thuở nọ
Đến hôm nay mộng đời hằng sáng tỏ
Nhiếp niệm lời kinh tiếng mõ
Thế cuộc thăng trầm
Con nước đầy
Con nước vơi
Người đi kẻ tới
Tượng Phật cổ
Mái chùa xưa
In đậm trong tâm
120.
Vườn rau liếp cải khóm hồng
Bằng đôi tay cần mẫn ngắm trông
Sáng tưới phân chiều nhổ cỏ
Vun trồng từng hạt sương khuya
Khóm trúc vương vương
Nương làn gió thổi
Cuộc đời mộng mị
Như hạt sương rơi
Góc biển chân trời
Mù khơi sóng nước
Ngó lại đời mình
Bằng đôi tay không
Chiều chiều hái những nụ hồng
Dâng lên cúng Phật thấy lòng an vui
Biển đời ngược xuôi
Lòng con bất động
Nhứt niệm quay về
Phật tâm chân như
121.
Áng mây trôi
Trên đầu núi tuyết
Nơi thái tử Tất Đạt Đa thiền định
Thành bậc gíác ngộ chân như
Khởi niệm tâm từ
Thương loài chúng sinh
Bằng đôi chân của người hóa đô
Tự độ, độ tha
Tam giới là nhà
Chúng sinh là cha mẹ
Một bình bát
Tam y thô
Nay khóm trúc
Mai rừng già
Một tích trưọng lần tháng ngày qua
Hữu duyên thì đến
Độ hà sa
Sống không nhà
122.
Nắng chiều đổ nghiêng trên triền núi
Tượng Phật ngồi
Dòng sông chảy
Lững lờ
Khóm tre xanh quanh xóm làng
Người dân miền thôn dã
Tiếng chuông chiều
Lời kinh khuya
Nuôi lớn đất trời tự thuở man nhiên
Viên đá cuội trên miền đất đỏ
Đỏ gót người
Đỏ cả cuộc chơi
Phiêu lưu từng bước độ đời
Làm con ốc nhỏ nằm phơi nắng chiều
Phì bọt phiêu phiêu
Dệt thành vệt nắng
Nắng ấm triền đồi
Ấm cả làn môi
Đi về chong ngọn đèn hôi
Đọc trang kinh ruột dứt đôi não phiền
123.
Trăng mơ trên xóm thượng
Chiếc nhà sàn lợp mái tranh
Rẫy rừng vây quanh
Thành buôn làng nhỏ
Tắm dòng sông xanh
Lạnh buốt cả người
Cuộc sống từ đó
Mạnh đôi chân
Lành đôi tay
Xây thành tổ ấm
Nuôi lớn đàn con trong chiếc thúng mây
Quê hương là đây
Núi rừng cỏ cây
Làm nhà che chở
Nắng sớm mưa chiều vặm vỡ rẫy nương
Sống là trời
Chết là đất
Tắm gội tuyết sương
Người dân xóm thượng mán mường là đây
124.
Chiếc mõ im
Lời kinh tụng
Dùi chuông buồn
Bất động canh khuya
Ngọn nến tàn
Mùi nhang lịm
Chánh điện yên trầm lặng thuở nào
Chú điệu vói cao
Làm hương đăng buổi sáng
Lau sạch bàn thờ
Hoa quả hư hao
Rồi từ đó
Dáng Sư già Thiền định
Vắng nơi đây hay là giấc chiêm bao
Nước của sông tự dâng trào
Sóng của biển tự muôn đời nhấp nhô
Trăng của núi phô bày tinh thể
Thể thời gian đốt cháy hư vô
Mặt trời đỏ tựa trái tim người đỏ
Ánh rạng đông thắp tỏ chân mây
Chắp đôi tay
Dâng lời cầu nguyện
Cho trầm hương khói quyện đong đầy.
125.
Vận nước điêu linh
Người đi kẻ ở
Trên quê hương mình
Hàng cau xinh xinh
Vươn mình trong nắng
Giàn bầu im ắng
Ẩn dưới làn cây
Hoa bưởi thơm lây
Từng giây mướp đắng
Nước chảy quanh đây
Nuôi lớn ruộng vườn
Đêm về quanh mương
Ếch kêu ồm ộp
Lúa trên cánh đồng
Vàng ối đơm bông
Từng lũy tre xanh
Buông mành liễu rũ
Cây đa đầu ngõ
Đỏ ngọn mái đình
Nuôi lớn tâm linh
Người dân đây đó
Từng con nước nhỏ
Dưới đêm trăng tỏ
Chảy vội qua đường
Ướt đẫm hơi sương
Liếp cà tươi tốt
Ba mươi mùng một
Lắng tiếng chuông ngân
Hội đêm trăng rằm
Đông đầy cả ngõ
Người lớn trẻ nhỏ
Chật ních trong sân
Hương trầm lâng lâng
Cúng xôi nếp quạ
Ông già bà cả
Hỉ hả chuyện trò
Tin Phật tin Tăng
126.
Thân già cặm cụi, một nắng hai sương
Ôn làm những mảnh vườn trồng rau muống
Những hàng cà thắm tím cả lối đi
Lập nguyện tu trì, nuôi đàn hậu học
Những giàn bí sọc, xanh mướt lá hoa
Huệ trắng mượt mà, đem ra chợ bán
Đúng ngày đến tháng, chăm sóc đàn con
Sức tuy mỏi mòn, tình thương vô tận
(tưởng niệm về Ôn Đồng Thiện – Tu viện Nguyên Thiều, 1969)
127.
Mái chùa rêu phong, trải qua nhiều tháng năm chồng chất. Cây sồi, cây ổi da nhám sù sì, uốn éo, khẳng khiu như để chống chỏi với thời gian tàn phá. Cây bồ đề, hàng phượng vĩ, giàn thanh long... vươn mình trong nắng. Từ thuở khai sơn, bước chân lên triền núi này, Hòa thượng đã trồng các loại cây trái che bóng mát cho chùa. Ngày nắng hạ, ve sầu tấu khúc, khắp đó đây trong vườn. Những đêm trăng sáng, lỗ đổ từng cụm trắng đen trên lối đi dọc Tăng đường. Thiền thất. Giảng đường. Chánh điện như im lìm, bất động dưới những tàng cây cổ thụ có tự thuở khai sơn của Tổ Hải Đức, qua đến thời Tổ Bích Phong, nay đến thời học Tăng của Viện.
Từ phía trước mỏm núi là chánh điện. Xoay mặt về hướng Nam, nhìn xuống chân đồi, xóm làng, lô nhô những mái nhà, những vườn cải, vườn rau muống, ngò ôm, tía tô, rau quế xanh um làm đời sống miền dân dả thêm đậm đà ý vị.
Bên phải chánh điện là ngôi nhà Tổ, thờ Hòa Thượng Hải Đức với hình vị Thầy người Mỹ đứng hầu phía sau. Nghe quý Ôn kể lại, người Mỹ ấy là đệ tử đời trước của Hòa Thượng. Đời này, Thầy ấy đi tìm và gặp lại Hòa Thượng nơi ngôi chùa này. Con đường luân hồi, dài vô tận, tiếp nối từ đời này qua đời nọ.
Bên cạnh hậu Tổ là phòng của Ôn Giám Sự, người nuôi dưỡng học Tăng qua bao thập niên, trên ngọn đồi, chùa cổ. Bao lớp người đến rồi đi, hợp rồi tan, nhưng Ôn vẫn hiện diện nơi đây, chẳng hề thay đổi. Ngày ba buổi lo cho học Tăng no lòng để học cho thành tài, phụng sự đạo pháp, tiếp nối con đường hoằng pháp của Cha Ông.
Phía sau phòng Ôn Giám Sự là trai đường và nhà bếp, qua bao đời vẫn như thế đó. Khói sớm, trưa, chiều quyện tỏa trên mái nhà tôn. Cây vả, cây mít, giàn thanh long, hàng phượng vĩ, như hòa nguyện với nhau, tạo thành cảnh trí nên thơ u tịch, mang sắc thái chốn già lam lâu đời. Bên cạnh nhà bếp là hàng củi chất cao, lớp lang, thứ tự. Củi lớn, củi nhỏ, vỏ, dăm đâu đó ngay ngắn. Đây là do tấm lòng Thầy Huệ An, học Tăng của Viện, bửa củi, nấu cơm cho học chúng. Sau này được biết Thầy là hóa thân của Bồ Tát, ở nhà bếp, chẻ củi, nấu ăn, quanh năm suốt tháng. Mặc đồ bá nạp, khâu chằm từng mảnh vải thô. Trên tay chiếc búa sáng chói, bửa củi nình nịch, sắp xếp đâu đó đàng hoàng để cô Bảy nấu nướng. Chỗ của Thầy bửa củi là dưới gốc cây ô-ma. Một hôm, buổi chiều xâm xẩm, có quý Phật tử lên thăm viện, thấy một vùng ánh sáng trên cành lá cây ô-ma, thì ra đó là nơi Thầy Huệ An đang ngồi nghỉ, sau khi bửa củi, dọn dẹp búa rìu. Có người hỏi Thầy tu theo pháp môn gì mà Thầy bửa củi suốt ngày vậy. Thầy cười, trả lời:
“Cực lạc, cực khổ song song
Hai đường đều cực biết dong đường nào?”
Khi xưa Tổ Huệ Năng cũng luôn ở dưới bếp, bửa củi, giã gạo, mà thành Tổ. Ngày nay, thế kỷ này, cũng có “Tổ Huệ An”, bửa củi, xách nước nuôi Tăng chúng. Ẩn danh, không lưu lộ hình tướng, danh tiếng. Sau khi công viên quả mãn, hóa độ hoàn tất, thì lại vác búa đến chùa khác tiếp tục bửa củi, nấu ăn cho Tăng chúng. Ấy là hạnh nguyện của Bồ Tát. Vô phân biệt.
Bước lên thềm cấp là quả Đại Hồng Chung, Ôn Giám Viện đã tôn trí ngay đó, dưới hàng phượng vĩ, dưới rặng Bồ Đề, giàn bông giấy. Vì lâu đời nên tiếng Đại Hồng chung bị rè, nhưng đây là chứng tích lịch sử, bảo vật thiền môn, đánh dấu một thời Tổ đã khai sơn, phá thạch, để có được ngôi chùa cổ kính cho bao lớp đến đi, thăng trầm theo vận nước. Tiếng chuông này khi xưa đã một thời nuôi dưỡng đời sống tâm linh cho dân làng, xóm xưởng, Phương Xài, thức khuya, dậy sớm, đúng giờ, đúng giấc ra đồng cầy cấy, gánh hàng ra chợ, học hành làm việc... Tiếng chuông đã đi vào từng chiếc lá, nụ hoa, của cảnh núi rừng u tịch nơi đây.
Dọc theo đồi hoa sứ, về hướng đông nam là dãy nhà ở của Tăng chúng và thư viện. Phía trên một tí nữa là Thiền thất của Ôn Giám Viện do Cụ Võ Đình Dung xây cất, hiến cúng. Hàng năm quý Ôn về đây giảng dạy cho học Tăng và nghỉ ngơi.
Bên cạnh Thiền thất là quả Đại Hồng chung thứ hai, Ôn mới đúc từ Huế đem vào để thay thế cho Đại Hồng chung rè tiếng ở trên. Thời ở Viện, sáng sáng, vào lúc 5:00 giờ, người viết thức sớm thỉnh chuông. Tiếng chuông làm ấm lòng mọi người sống chung quanh Viện, tiếng chuông như là người bạn chí thân, vắng tiếng chuông chùa Hải Đức cảm như trống vắng mênh mang nơi núi đồi, thành phố của miền cát trắng Nha Trang. Về sau này, phía trên Thiền thất là cư xá Tăng sinh viên của chúng chuyên khoa Cao Đẳng, nhưng chỉ được đôi ba năm, rồi bị hư hại, tàn phá theo thời cuộc.
Trên lưng đồi, từ tháp sắt, Kim Thân Phật Tổ cao 25 mét, màu trắng, trong tư thế tọa thiền nhìn ra biển. Đây là một kỳ quan của thành phố Nha Trang, khách thập phương vãng cảnh, hầu như ai cũng muốn một lần được kính viếng Kim Thân. Trong thành phố, dưới góc cạnh nào, cũng đều thấy được tượng Phật từ bi, lân mẫn qua đôi tay điêu khắc tài ba của nghệ nhân.
Một công trình tạo dựng, bảo tồn nền văn hóa Việt tộc và Phật Việt. Hình ảnh Kim Thân Phật Tổ đã lan rộng khắp nơi trên thế giới, vì hàng ngày khách thập phương quốc tế thăm viếng, chụp ảnh phổ biến trên các trang mạng toàn cầu.
Lần xuống 108 bậc cấp tới chân đồi là chùa Long Sơn, nơi Hòa Thượng Bổn Sư trụ trì từ thuở lên năm. Ôn từ Huế vào và xuất gia nơi đây với Tổ Khai Sơn và cứ thế ngày tháng trôi qua. Ôn sống bình dị, không đi học, chẳng rời chùa, đến nay đã 92 tuổi. Chiếc áo tràng đà Ôn mặc, mỗi năm chỉ giặt một lần, mồ hôi làm cổ áo, tay áo sáng bóng lên, Y hậu của Ôn cũng vậy, không bao giờ giặt, cũng như Ôn gần như không tắm, có điều đặc biệt là người Ôn không có mùi hôi. Có lẽ người Ôn được xông ướp bằng hương Từ bi, hương giới đức nên những thứ mồ hôi thế gian không thể dính vào thân của Ôn. Hàng ngày Ôn bóp vụn bánh mì khô, thêm hai muỗng đường cát trắng rải khắp các ổ kiến. Ôn hạ những nải chuối cau cúng Phật, những quả táo, quả cam ... bỏ vào tay nải, đạp xe xuống bệnh viện đa khoa Nha Trang, phân phát cho các bệnh nhân thiếu người chăm sóc, từ ngày này qua tháng nọ không ngừng nghỉ. Mỗi sáng sớm, Ôn nấu nồi cháo trắng, đem chén đũa, muỗng để sẵn nơi nhà Thiền, để quý Thầy có chút gì lót dạ khi ghé dùng sáng, uống trà nóng rồi đi làm việc. Khi có chút tịnh tài, Ôn đem ấn tống kinh sách gửi cho mọi người, bất kể ai, Ôn chẳng phân biệt thân sơ, tất cả đều bình đẳng như nhau.
Hôm nay, bao lớp người đi qua, Ôn vẫn còn đó, còn như trái núi sau chùa, vững chãi, kiên cố, hơn 92 năm ở với đời. Đôi chân mày của Ôn mỗi ngày như dài thêm ra, bạc trắng như tiên ông, như Bồ Tát, như Thiền Sư, như Đại Lão Hòa thượng, bậc thạch trụ Thiền Môn, chống đỡ mái chùa, gần tròn thế kỷ.
Khách thập phương viếng chùa, bước vào chánh điện, chấp tay ngước nhìn Đức Phật Bổn Sư đang nghiêm tọa, miệng mỉm cười, ánh mắt Từ Bi.
128.
Quê hương xa cách nghìn trùng
Lòng tưởng nhớ nhung
Cánh bướm mỏng đậu bên hàng dậu
Chiều bay bay theo gió mông lung
Anh về một sớm
Em không về cùng
Để ngắm quê hương
Chìm trong sương khói
Bên chân trời Tây
Em sống nơi đây
Để thấy quê người
Em khóc em cười
Cho quê hương em
Chiều buồn mây tím
Giăng giăng lối về
Bóng người thấp thoáng
Con đê đầu làng
Nặng trĩu đôi chân
Vai mang bó rạ
Ngày đêm tất tả
Một nắng hai sương
Con cuống, con nương
Tơ tằm dệt vải
Để từ đó anh chấp cao đôi tay
Cho quê Mẹ bớt gầy
Cho quê Cha bớt khổ
Cho quê anh mưa đổ
Nuôi lớn nương dâu
Cho quê em nước ngập đầu cầu.
Mang phù sa nuôi lúa mạ
Trăng rằm sáng tỏ
Trước ngõ chùa tôi
Xin Phật nắm xôi
Về cho Mẹ già.
129.
Vách đá, lối mòn, cây phượng vĩ
Mái chùa rêu phong, phủ kín cuối đường
Giàn hoa giấy, tháp chuông dạn dầy năm tháng
Như chứng nhân từ dĩ vãng đến nay
Cội bồ đề gầy guộc rụng lá đầy
Từng cơn gió heo may kéo về đồi núi
Hoa sứ cúi đầu, mộc lan trắng muột
Chen lẫn xanh vàng hoa khế thanh thiên
Dịu hiền e ấp hình ảnh quê hương
Cây cầu nọ triền miên đưa khách
Khách bách bộ, khách lần từng cấp
Đỉnh non cao mái chùa cổ từ lâu
Rặng non xanh mây trắng phủ đầu
Hồi chuông triêu mộ in sâu lòng người
Giọt mưa đổ, ánh nắng hè
Chiếc liếp phên che Thiền thất
Ánh đèn lất phất soi dòng kinh nâu
Nguyện cầu lòng người thương nhau
Từ bi quyến thuộc quả câu ân tình.
130.
Dòng sông lững lờ
Hai bờ cỏ mọc
Nuôi lớn đàn bò khổ nhọc
Cày ruộng sớm trưa
Cơn mưa rơi nhẹ
Trên cánh đồng hè quê hương
Những ruộng những nương
Dân làng cầy cấy
Đất bùn nhày nhày
Lấm láp tay chân
Cứ mỗi bước chân
Lui dần thửa ruộng
Mạ non xanh rì
Con cuống con cua
Mỗi sớm mỗi trưa
Chiếc bừa bừa ruộng
Bừa phẳng đất bùn
Cấy mạ lúa thơm
Cơm về cho những chiều hôm
Bên hè mái rạ đầu hôm cuối làng
Vang vang tiếng hát
Điệu điệu câu hò
Trăm năm bến nước con đò
Tình quê hương thắm, cánh cò trắng bay.
131.Người đi trong ánh nắng vàng
Chói chan trên mái ấm chùa quê hương
Nơi đó ấp ủ tình thương
Hai ngàn năm dân tộc
Ruộng đồng khô khốc
Đón giọt mưa rơi
Làm tươi nhuận đất trời
Xóm làng sinh ra tôi từ thuở
Tiếng khóc đầu đời bỡ ngỡ
Nơi chốn nhà xưa
Cha tôi đan liếp dừa, mái nhà khỏi dôt
Vách phên lộp độp
Gió nồm thổi qua
Mẹ già vun quén luống cà
Vườn hoa trổ nụ
Mướp già đơm bông.
Khói ấm chiều đông
Sưởi lòng người dân lương thiện
Sống trên cánh đồng
Tổ Tiên nòi giống
Lạc Hồng Rồng Tiên
Sông núi hồn thiêng
Quê hương nước Việt
Một giải đất dài
Xanh ngát biển non
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”
132.
Phật giảng kinh cho cóc
Cóc lặng im cúi đầu
Cua nghe lời kinh Phật
Thông hiển thật thâm sâu
Cua cóc là chúng sinh
Mang tâm lành hòa bình
Sống dưới ánh quang minh
Trên lộ trình giải thoát
Ngày nay cóc là cóc
Mai sau cóc hiện hình
Mang bình bát khất thực
Độ nhật cứu chúng sinh
Cua cóc đồng tánh Phật
Giác ngộ, ngộ vô sinh
133.
Chiếc lá phơi nắng ấm
Im lặng nghe tiếng chuông
Chuông ngân từng giọt buồn
Trên đỉnh đồi tháp cổ
Cuốn mình theo lá đổ
Về cội nuôi gốc già
Sinh tử là đại mộng
Tháng ngày tháng ngày qua
Hôm nay cội gốc già
Mai kia thành lá đổ
Vô thường từ thiên cổ
Mãi cho đến mai sau
Như những chuyến con tàu
Đưa người về thổ mộ
Thời gian như thác đổ
Chôn chặt vạn kiếp sau
Mộng đời như nhịp cầu
Qua đi trong thoáng chốc
Soi gương thấy bạc đầu
Kinh kệ chẳng thấm đâu
Mộng hợp rồi mộng tan
Mộng như giấc mơ màng
Tỉnh mộng là đại mộng
Nghìn trùng quá quan san
Vô thường hay chân thường
Đều là dòng chữ viết
Quán triệt tâm chân như
Ý nhiệm mầu siêu việt
Lá đổ chiều vào thu
Tiếng kinh cầu vang vọng
Mái chùa im soi bóng
Mặc chiếc áo sương mù
Rừng thu lá mù u
Hứng từng giọt nắng ấm
Tinh thể của thời gian
Lặng thầm trong kiếp sống
134.
Nắng chiếu trên đồi cây
Rừng thu rụng lá vàng
Lá khô rơi về cội
Cành khô trông bẽ bàng
Ngôi chùa dáng trang nghiêm
Nép mình ven triền núi
Lời kinh như dòng suối
Êm đềm nhè nhẹ trôi
Tâm Phật trong tâm tôi
Trải bao kiếp luân hồi
Triền miên ta bà khổ
Nhưng trong Phật có tôi
Rừng thu nhuộm lá sồi
Lá xanh hồng lá đỏ
Chen nhau trên đồi cỏ
Ven đường người đi qua
Dáng Thầy trông sương pha
Y vàng trông la đà
Hóa thân Bồ Tát hạnh
Chắp tay niệm Di Đà
Chân lần bước lên non
Tam cấp đường chon von
Trên cao là đỉnh Phật
Ước mơ được vuông tròn
Tu là sửa tâm con
Như chiếc lá vẫn còn
Trên cành cây sầu mộng
Tiếng chuông chùa boong boong
Cây rừng đứng nơi đây
Hứng mưa gió lạnh đầy
Đêm ngày nghe kinh kệ
Như làn mây bay bay
Tâm không vật cũng không
Thế sự như chốc mồng
Lắng nghe dòng suối biếc
Nhỏ giọt sầu cô phong
Rừng phong yên giấc nồng
Tượng Phật ngồi bất động
Nắng sớm hóa thành bông
Cúng dường Vô Lượng Phật
135.
Con rắn nằm trong hang
Nhắm mắt rắn mơ màng
Lắng nghe lời kinh Phật
Rắn thoát kiếp hổ mang
Con kiến nằm trong hang
Kiến gặm củ khoai lang
Vẳng nghe lời kinh Phật
Nhẹ nhàng nghiệp cưu mang
Con ếch nằm trong hang
Ếch mơ chốn thiên đàng
Ếch nghe lời kinh Phật
Nhẹ nhàng ếch sang ngang
Con nhái nằm trong hang
Nhái thắp nhang cúng Phật
Dâng trọn tấm lòng thành
Nhái hiện thân chân thật
136.
Đêm nằm nghe ếch kêu
Bên bờ sông rau muống
Thương cho phận cà cuống
Làm loài thú súc sinh
Chùa đêm nay tụng kinh
Cầu thế giới hòa bình
Cầu tâm linh siêu thoát
Cứu độ vạn sinh linh
Dù con cua con ếch
Dù con nhái con còng
Nhất niệm đã nằm lòng
Vượt khỏi vòng tử sinh
Vào mỗi buổi bình minh
Chim muông ở núi rừng
Thức dậy kêu ríu rít
Chuyền cành cây rung rinh.
Chim sống ở một mình
Ca hót như lời kinh
Sống đời núi rừng thắm
Bình an thoát khổ hình
Sáng nay tôi thức dậy
Thấy đàn nai quanh chùa
Ngơ ngác nhìn lá đổ
Mơ về núi rừng xưa
Kiếp nai thật hiền hòa
Ăn cỏ uống nước suối
Mình mặc áo bông hoa
Thảnh thơi kiếp không nhà
Tất cả các loài thú
Thảy đều có tâm linh
Hình tướng ngoài có khác
Phật tâm, Phật tâm bình
137.
Lăn lóc loài chúng sinh
Từ đầu nguồn sinh tử
Cưu mang chiếc hình hài
Làm thân người lữ thứ
Băng qua bao đồi núi
Cho đến ghềnh biển xanh
Một kiếp sống mong manh
Như gió thoáng đầu cành
Sương đêm rơi xuống đất
Đất ôm duyên mộng lành
Ươm cho đời sống mới
Tô đượm thắm màu xanh
Mộng sống cho hôm nay
Mai kia mộng sẽ chết
Lê lết kiếp đọa đầy
Phù du thoảng qua hết.
Bằng đôi tay trắng không
Lật từng trang kinh tụng
Lời kinh quyện cõi lòng
Vượt thoát vòng tử sinh
Mộng làm người vỡ mộng
Thân làm Phật pháp thân
Trí Bát Nhã tuyệt trần
Chuyển người mê thành ngộ
Đêm nay nhìn trăng tỏ
Nhớ lại nhiều kiếp xưa
Kết duyên Phật nhất thừa
Trên con đường giác ngộ
Nguyện cho đời bớt khổ
Người biết thương yêu nhau
Muôn loài niệm kinh cầu
Nam mô mười phương Phật.
138.
Năm mươi bảy năm con ngồi nhớ Mẹ
Trên vỉa hè căn nhà cũ khi xưa
Mẹ gánh Mẹ gồng mỗi buổi chiều trưa
Đầu thúng khoai lang vài ràng bánh tráng
Mẹ nuôi đàn con trông ngày đoạn tháng
Mẹ ẵm Mẹ bồng chăm sóc yêu thương
Đi chợ về quẳng đôi thúng nơi nương
Trật áo cho con bú liền ngay đó
Mái nhà rạ dưới vầng trăng sáng tỏ
Mẹ ru con ru giấc ngủ đong đầy
Lòng Mẹ ấm trái tim nồng máu đỏ
Vỗ về con lời ngọt lịm xưa nay
Rồi bây giờ con ngồi đây nhớ Mẹ
Để thấy rằng:
Mẹ hiền như Phật, Mẹ đẹp như Tiên
Mẹ của đời con nơi miền thôn dã
Mẹ là tất cả đất trời mới lạ
Hiến dâng đời êm ả cho đàn con
Mẹ là dòng suối Mẹ là nước non
Mẹ tưới tẳm thân đàn con mát mẻ
Do vậy mà đức Phật dạy rằng:
“Bậc Thánh hiền cao cả
Nhớ công ơn Mẹ, hiếu thảo muôn đời”
Làm con thương Mẹ ai ơi!
Sanh thành dưỡng dục công lao vuông tròn
Mẹ là một tấm lòng son
Vầng trăng, mây bạc, núi non ngàn trùng.
139.
Việt Nam quê hương tôi
Nằm trên bờ Thái Bình Dương
Sớm đón gió yêu thương
Chiều đưa mây ngát hương
Lắng nghe lời kinh tụng
Nam Mô tâm diệu thường
Quê hương đó có Thiền sư
Vũ Khắc Minh
Vũ Khắc Trường
Hiện thân hành giả
Tọa thiền đêm sương
Đắc thân Kim Cương
Người đời ngưỡng vọng
Con đường tu chứng
Khó nghĩ khôn lường
Giọt Ngã nhỏ xuống
Mở mắt mười phương
Trầm hương quyện tỏa
Dâng lên cúng dường
Thiền Sư Vũ Khắc Minh
Thiền Sư Vũ Khắc Trường
Dòng Thiền Phật Việt
Dẫn đường Việt Nam
140.
Cuối đèo Thiền Sư xuống dốc
Đầu đèo cơn lốc cuốn qua
Sườn non vách đá trăng già
Thiền Sư nhẹ bước phương xa
Chiếc nón nằm phơi ghềnh cát
Thiền Sư tựa chấm sương sa
Mịt mờ sóng nước khỏa lấp
Chân thân hiện thể bao la
Gậy trúc oằn đôi vai nhỏ
Núi xanh mây trắng đạo ca
Thong dong đếm từng bước nhỏ
Thênh thang như kẻ không nhà.
Liên Lạc:
CHÙA PHẬT ĐÀ
4333 30th Street,
San Diego, CA 92104
Tel.: (619) 283 7655
TU VIỆN PHÁP VƯƠNG
715 Vista Avenue
Escondido, CA 92026
Tel.: (760) 739-8063