Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Hàng Châu và Tế Điên Hòa Thượng

11 Tháng Hai 201200:00(Xem: 10285)
18. Hàng Châu và Tế Điên Hòa Thượng
MÙI HƯƠNG TRẦM
Nguyễn Tường Bách
(Ký Sự Du Hành Tại Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng)

PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT

HÀNG CHÂU VÀ TẾ ĐIÊN HÒA THƯỢNG 

Tên Hàng Châu gây trong lòng tôi sự hâm mộ, hơn cả Bắc Kinh, Thượng Hải. "Trên có thiên đường, dưới có Tô Hàng". Thiên đường thì của Ngọc HoàngTây Vương mẫu, còn Tô Châu Hàng Châu là của tất cả mọi người, vì thế ngày nay ai đến Trung Quốc là đến Tô Châu Hàng Châu, còn thiên đường thì hạ hồi phân giải

Ngày xưa trước công nguyên Hàng Châu có tên là Tiền Đường, đó là tên của con sông chảy qua Hàng Châu. Mãi đến năm 589 trong thời nhà Tùy, thành phố xinh đẹp này mới mang tên Hàng Châu, đó là thời kỳ xây dựng kênh đào Đại vận hà dài 1800km từ Bắc Kinh về đây. Hàng Châu là cố đô của nhiều triều đại mà phồn vinh nhất là đời Tống, lúc triều đại này lánh nạn về phía nam trong thế kỷ thứ 12. Marco Polo, người đến đây trong thế kỷ 13 cho rằng đây là thành phố "đẹp nhất thế giới" với 12.000 chiếc cầu. Đã từ xưa, Hàng Châu là một chốn đầy sông nước hồ núi. 

blank

Đến Hàng Châu là đến Tây Hồ với núi Cô sơn, rộng gần 6 cây số vuông, ba phía là núi bao bọc. Cô sơn là một trong bốn hòn đảo của hồ, cao 38m, nơi Lâm Bô đời Tống ở ẩn, nuôi hạc và trồng mai. Ngày nay trên Cô sơn còn giống mai và nấm mồ của ông. Không chỉ Lâm Bô, Tây Hồ ghi dấu chân của biết bao nhiêu thế hệ thi nhân văn sĩ, trong đó Bạch Cư Dị đã từng làm thái thú tại đây và công trình xây đê điều của ông còn lại tới ngày nay. Hàng Châu cũng là nơi yên nghỉ cuối cùng của Nhạc Phi (1103-1142), vị tướng quân bị triều đình lên án tử hình một cách oan uổng. Sau khi được phục hồi, thi hài của ông và con trai được đưa về đây. Người ta tin rằng những người trung liệt như ông sẽ thành thần tiên mà trên nóc điện thờ còn khắc họa hình chim hạc, loài chim chỉ dành cho những người bất tử

Tôi đến đây để biết cảnh thiên đường ra sao nhưng cũng để theo vết chân của một vị tăng sĩ kỳ dị, đó là Tế Điên hòa thượng

Tế Điên tên thật là Lý Đạo Tế, sống trong đời Tống, tức là khoảng thế kỷ thứ 12. Ông là tăng sĩ nhưng ham uống rượu ăn thịt chó nên người đời gọi ông là Tế Điên. Mới đầu Tế Điên ở núi Thiên Thai nhưng ông sớm lên phía bắc khoảng 300km để đến Hàng Châu. Tại Hàng Châu có một ngôi chùa rất cổ, một danh tự đã ghi dấu chân nhiều vị cao tăng, đó là chùa Linh Ẩn. Tế Điên vào đó xin xuất gia

Linh Ẩn tự được khởi xây năm 326, nằm trong một khuôn viên cực lớn, là một trong những ngôi chùa danh tiếng nhất Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ 10 thì nơi đây có 300 tự viện và 3000 tăng sĩ. Ngôi chùa này là đối tượng của nhiều sự tàn phá, nó đã bị phá hủyxây dựng lại đến nay tổng cộng 16 lần. Trong cuộc nổi loạn Thái Bình thiên quốc (1851-1864) chùa bị phá hủy hoàn toàn và sau đó mới được xây cất lại. Năm 1953 thủ tướng Trung Quốc là Chu Aân Lai ký giấy cho xây tượng Thích-ca cao 19,6m. Trong thời cách mạng văn hóa, nếu không có sự can thiệp vào phút chót của ông thì chùa Linh Ẩn cũng đã bị tiêu hủy. Ngày nay vào tiền điện ta gặp một bức tượng của Di-lặc và Vi đà tướng quân của đời nhà Tống. Trong Đại hùng bảo điện cao 33,6m ta thấy lại tượng Thích-ca đó, khuôn mặt dát vàng ngời sáng trong ánh đèn mờ ảo. 

Linh Ẩn là nơi các vị đạo cao đức trọng tu hành, trong đó có Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975). Hồi còn trẻ ông làm quan, lấy trộm tiền của vua phân phát cho dân nghèo. Vua thử lòng lên án tử hình, xem thái độ ông ra sao. Xem ra ông vui vẻ chẳng sợ chết, vua tha tội, cho xuất gia. Vĩnh Minh Diên Thọ lên núi Thiên Thai gặp thiền sư Đức Thiều ngộ đạo tại đó. Năm 950, Trung Hiến Vương mời ông về trụ trì chùa Linh Ẩn. Vĩnh Minh Diên Thọthiền sư, đạt đạo bằng tự lực nhưng ông cũng là người biết rằng căn cơ con người không mấy ai đi được con đường Thiền tông nên cũng giáo hóa Tịnh Độ tông, phép niệm Phật vãng sinh. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Vĩnh Minh Diên Thọ là một trong những vị ít ỏi giáo hóa cả Thiền tông lẫn Tịnh Độ tông

Còn Tế Điên xem ra không mấy thắc mắc về chuyện đó. Huyền sử kể rằng lúc Tế Điên đến Linh Ẩn Tự thì nằm mộng thấy có một tai họa sắp xảy ra cho dân làng. Đó là ngọn Linh Thứu, chỗ Phật thuyết Diệu pháp liên hoa, sẽ bay từ Ấn Độ về cực lạc và sẽ "nghỉ chân" ngay trước Linh Ẩn tự. Tế Điên vội báo ngay cho dân làng tránh xa nhưng dân chúng làm gì mà tin được một nhà sư ăn thịt chó nên chẳng ai nghe. Sắp đến giờ Linh Thứu hạ cánh mà dân chúng vẫn nhởn nhơ, thậm chí họ còn lo tổ chức đám cưới cho một cặp vợ chồng nọ.

Thấy ngọn núi đá vun vút bay lại mà dân làng vẫn vui cười, không biết làm sao, Tế Điên nhảy vào lễ cưới, ôm cô dâu chạy như bay. Dân làng đâu dễ để cho một ông sư ăn thịt chó cướp cô dâu của mình được liền đuổi theo thì đánh "rầm" một cái, một ngọn núi đá trên trời rớt xuống, nằm ngay trước Linh Ẩn Tự. Khi đó dân làng mới biết Tế Điên đã cứu mình. Ngọn núi đó là Phi Lai phong (đỉnh "bay lại đây"). Tế Điên giải thích cho dân làng đây là ngọn núi thiêng từ Ấn Độ bay qua, nghỉ một thời gian sẽ bay tiếp. Muốn đỉnh núi ở lại vĩnh viễn với xóm làng, hãy tạc lên núi đá 500 bức tượng Phật

Ngày nay Phi Lai phong còn ở đó, chưa bay đi. Phi Lai phong chỉ cách Linh Ẩn tự một con suối nhỏ, cao 168m, có vô số hang hốc và khoảng 380 tượng Phật, có niên đại khoảng thế kỷ thứ 10. Tại vách phía đông của Phi Lai phong có ba bức tượng khá cổ của năm 951, tạc đức Thích-ca, Quan ÂmDược Sư. Tượng lớn nhất của Phi Lai phong nằm trên vách phía bắc, đó là tượng Di-lặc thuộc đời nhà Tống (960-1270), tay cầm xâu chuỗi. Tôi leo lên Phi Lai phong, lòng nhớ về Linh Thứu, chỗ mà tôi yêu mến nhất trong các chuyến du hành Ấn Độ. Đáng yêu thay những chuyện truyền kỳ, hiềm gì chúng có thật hay không có thật. 

Gần Linh Ẩn có một ngôi chùa khác, đó là chùa Tịnh Từ, cũng là nơi có di tháp của Vĩnh Minh Diên Thọ. Tịnh Từ là chỗ Tế Điên một thời hoạt động tích cực. Chùa này không may bị cháy, Tế Điên liền lớn tiếng cho hay mình sẽ kiếm gỗ xây chùa mới. Nói thế nhưng Tế Điên không đi đốn cây làm gỗ gì cả. Trong chùa có một vị tri sự tên là Quảng Lương không ưa Tế Điên từ lâu, thấy thế muốn chế nhạo ông một phen nên làm ngơ không nhắc nhở gì cả. Đến gần ngày khởi công xây chùa, Tế Điên lên núi Nghiêm Lăng xin củi.

Ông lại áp dụng cái kế của Kim Kiều Giác tại núi Cửu Hoa, chỉ nói xin chút rừng bằng miếng áo cà-sa mót củi. Nào ngờ áo cà-sa của ông choàng hết núi, choàng tới đâu cây rạp tới đó. Tế Điên cho đem thả cây xuống sông, tưởng cây trôi ra biển, nhưng cuối cùng cây trồi lên trong giếng Hương Tích nằm ngay trong chùa Tịnh Từ và được 6 người lạ mặt vớt lên, đó là thần Lục giáp. Quảng Lương hoảng hồn chịu thua, lấy cây xây chùa nhưng lòng còn ấm ức về ông tăng ăn thịt chó. Lấy củi một hồi xong, Quảng Lương hô "đủ số", thần Lục giáp biến mất, nhưng thật ra ông đếm lộn, còn một cây nằm dưới đáy giếng. Vì lỗi đếm lộn mà Quảng Lương phải chịu đền cây thiếu, ông phải khổ sở lắm mới kiếm ra một cây thế chỗ. 

Tôi tới chùa Tịnh Từ, chiếc giếng Hương Tích vẫn còn. Du khách tới đây ai cũng nhoài người xuống giếng để xem cây gỗ sót lại từ thời xa xưa. Chiếc giếng nhỏ và sâu, đường kính chừng 1m, không hiểu làm sao thần Lục giáp vớt được cây. Du khách không không thắc mắc về chuyện đó, họ phải thấy cây củi trong chiếc giếng tối om nên người ta phải treo một cây đèn dưới giếng để thấy được cây. Về sau Tế Điên có để lại bài kệ lúc từ trần: 

Lục thập niên lai lang tịch, 
Đông bích đả đảo tây bích, 
Ư kim thu thập qui lai, 
Y cựu thủy liên thiên bích. 
Sáu mươi năm bừa bãi
Vách đông đánh đổ vách tây 
Đến nay thu nhặt quay về 
Như xưa nước liền trời biếc

Nhưng Tế Điên sẽ không là Tế Điên nếu ông chết thật. Về sau có vị tăng gặp ông ở chân tháp Lục Hòa, nằm bên sông Tiền Đường cách đó không xa. Ông có gửi thư về, báo sẽ về lại núi Thiên Thai. Lục Hòa bây giờ cũng là danh lam thắng cảnh của Hàng Châu. Đó là tháp xây năm 970 nhưng đến năm 1121 bị phá hủy và được xây lại năm 1899, ngày nay có chiều cao khoảng 60m. 

Tế Điên về lại Thiên Thai thì ngàn năm sau Tịnh Từ lại bị hủy hoại, cách mạng văn hóa trong những năm sáu mươi của thế kỷ này đã phá hủy ngôi chùa. Lúc tôi tới thì Tịnh Từ mới được xây lại một phần, lầu trống đã có nhưng lầu chuông chưa ai xây. Tế Điên đã vắng bóng. Đời này đâu còn chỗ cho một con người đắc đạo và hóm hỉnh như thế xuất hiện. Trong chùa Tịnh Từ ngày nay tôi tìm thấy tượng của

Tế Điên, tưởng Tế Điên cũng mập mạp như Bố Đại hòa thượng, nhưng không phải. Ông gầy dơ xương, mặt mày vui tươi, tay cầm quạt mo. Trong chùa người ta không tiện trình bày một Tế Điên ham rượu thịt nên chỉ có quạt mo, nhưng ra khỏi chính điện trong các sạp bán đồ lưu niệm là vô số tượng ông tay cầm đùi chó, tay kia quạt mo. Tôi khám phá cả một tượng Tế Điên bị chó cắn gấu quần, lòng bỗng nhớ Tịch Thiên ở Na-lan-đà, Ấn Độ với bài kệ

Con nai trên bàn ăn, 
chưa hề sống hề chết, 
chẳng bao giờ vắng bóng
Đã không gì là Ngã, 
sao lại có thợ săn, 
hay thịt của thú rừng?

Ngày nay nếu Tế Điên có tái sinh thì có lẽ ông phải ăn thịt nai như Tịch Thiên vì loài chó đã biến mất trên nước Trung Quốc. Cách đây khoảng vài mươi năm nhà nước Trung Quốc đã cho diệt loài chó, vì lý do nào thì tôi không rõ. Đi khắp từ nam xuống bắc, từ tây sang đông tôi không thấy bóng một tên cẩu tử nào cả. Họa hoằn lắm trên các vùng sơn cước có lúc tôi mới thấy một chú chó ngơ ngác, cứ mỗi lần như thế tôi lại nhớ Tế Điên hòa thượng

Nhìn hình ảnh của Tế Điên, tôi nhớ đến Bùi Giáng, nhà thơ mới xa chúng ta vài năm nay. Bùi Giáng cũng gầy gò như Tế Điên, cũng bụi đời, cũng đi về cõi nhân sinh như Tế Điên. Tôi được gặp ông trong nhà một người bạn thân tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi vào khu vườn nhỏ bé đó đúng lúc Bùi Giáng đã ngồi sẵn trong đó. Bên ngoài ông không khác mấy với một người ăn xin đã già nhưng khuôn mặt tinh anh và cặp mắt sắc sảo làm tôi kính sợ. "Đó, bồ-tát đó", người bạn nói để giới thiệu người tôi hâm mộ nhưng trước đó chưa từng gặp. Tôi biết Bùi Giáng với tính cách là một người làm vua trong cõi chữ nghĩa.

Ông có thể hiểu ngộ những văn hào khó hiểu nhất của Đức, Pháp, Anh và dịch những tác phẩm của họ với một thứ văn chương trác tuyệt, trung thành với nguyên bản nhưng không gượng ép miễn cưỡng. Và với tiếng Việt thì ông vào ra như thiền sư vào chợ, ông phung phí, ông sử dụng, ông chơi đùa như trẻ con nghịch cát. Ông sống triền miên trong cõi thơ ca của ông để mỗi tiếng mỗi lời của ông có một chiều sâu, một ý nghĩachữ nghĩa của ông tự chúng xếp lại thành thơ. Chúng ta cho rằng ông "làm thơ" nhưng có lẽ ông không tự biết mình làm thơ. 

Bùi Giáng cũng như một người điên, cỡ Tế Điên. Ông cũng như Tế Điên hình như đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa giỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa giỡn. 

Từ chân tháp Lục Hòa, Tế Công viết thư: 

Ức tích diện tiền dương nhất tiễn, 
Chí Kim do giác cốt mao hàn 
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức, 
Hự vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên 
Mặt dạn xưa từng đón mũi tên, 
Lông xương nay vẫn dỡn chưa yên. 
Chỉ vì mặt thật không ai hiểu, 
Về núi Thiên Thai lại một phen.

Tế Điên đùa trong cõi "lông xương" như Tịch Thiên với thịt nai thịt chóù. Đó là các vị giết hại sinh vật nhưng "mặt thật" của họ là cái vô sinh vô tử. Cũng thế Bùi Giáng đùa giỡn với chữ nghĩa, ông sử dụng những từ thô kệch nhất đến những ý tưởng ẩn mật nhất chỉ để nhân sinh thấy cái biến hóa lường ảo của một cái duy nhất. Cũng thế màVĩnh Minh Diên Thọ, ngay trong chùa Linh Ẩn cổ xưa này đã chỉ bày cho thấy cái "tư tưởng" - cái quan trọng nhất của Descartes - cũng như thịt nai thịt chó, cũng như chữ nghĩa dở hay, đều là "vọng thức cả, chẳng can gì đến tâm".

Chúng ta thường lầm thức là tâm, thậm chí hay gọi chung là "tâm thức". Vĩnh Minh Diên Thọ trả lời câu hỏi về "tâm thức" của một vị tăng như sau: 
"Như Lai Thế Tôn trên hội Lăng Nghiêm vì ngài A-nan giản biệt rất rõ mà ngươi vẫn cố chẳng tin. Ngài A-nan lấy cái suy xét theo đuổi làm tâm, bị Phật quở đó. Cái suy xét theo đuổi đó là "thức"... Ý là nhớ, đối cảnh khởi vọng đều là vọng thức, chẳng can gì đến tâm. Tâm chẳng phải có- không, có-không chẳng nhiễm. Tâm chẳng phải cấu-tịnh, cấu-tịnh chẳng nhơ. Cho đến mê ngộ phàm thánh, đi đứng ngồi nằm đều là vọng thức, chẳng phải tâm vậy. Tâm xưa chẳng sinh, nay chẳng diệt".

(36) - Hai sông kia là Amazona và Nil 
(37) - Theo nhiều tài liệu, ông sống từ 343-287 trước công nguyên 
(38) - Có tài liệu chép là Tử An, theo Lê Nguyễn Lưu, Đường thi tuyển dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa 1997 
(39) - Sinh năm nào không rõ, mất năm 754 
(40) - Bản dịch của Tản Đà, Ngày Nay số 80, 1937 
(41) - Một chức quan nhỏ coi việc hình pháp 
(42) - Trích Lê Nguyễn Lưu, sách đã dẫn 
(43) - Bản dịch của Phan Huy Thực, trích Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử, giản ước tân biên, NXB Đồng Tháp 1997 
(44) - Sinh năm 695 trước Lý Bạch 6 năm, mất năm 794 
(45) - Ngũ Đài, Nga Mi, Cửu Hoa và Phổ Đà sơn 
(46) - Làm vua từ năm 1004-1007 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26216)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21624)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14726)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12952)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19827)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13819)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22777)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11987)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12425)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24045)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13733)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25646)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19248)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23236)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21405)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18330)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13988)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15461)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17877)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21964)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17542)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30946)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28073)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17158)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22623)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28231)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14015)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17060)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22312)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14162)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21492)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20829)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28531)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15062)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26597)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19292)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31602)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30652)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21024)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23578)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25622)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25394)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19732)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18484)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17796)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19063)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant