Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Ninh Ba, đầu nguồn của Thiền Tông Nhật Bản

11 Tháng Hai 201200:00(Xem: 10341)
20. Ninh Ba, đầu nguồn của Thiền Tông Nhật Bản
MÙI HƯƠNG TRẦM
Nguyễn Tường Bách
(Ký Sự Du Hành Tại Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng)

PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT (tt)

NINH BA, ĐẦU NGUỒN CỦA THIỀN TÔNG NHẬT BẢN 

Ninh Ba, nằm trên bờ biển nhìn ra Nam Hải Quan Âm trên đảo Phổ Đà, là một vùng đất thiêng. Du khách ai cũng biết Thượng Hải, nào ngờ cách đó 200km về hướng nam có một vùng đất đã phồn vinh từ đời nhà Tần, cách đây 2300km, đó là Ninh Ba. Đến đời nhà Đường, Ninh Ba trở thành một cảng biển quan trọng của Trung Quốc. Qua thời nhà Tống, năm 1127, khi triều đình dời đô về Hàng Châu thì Ninh Ba đóng vai trò quan trọng như ngày nay Thượng Hải đối với Bắc Kinh. Đến thế kỷ 16 thì Ninh Ba đã đầy những tàu thuyền nước ngoài. Trong những người lữ khách lui tới đó có những tăng sĩ đến từ một quần đảo tên gọi là Nhật Bản. Thế nhưng tàu bè đâu phải là thứ làm Ninh Ba trở thành vùng đất thiêng mà từ rất xưa đây là nơi tụ hợp nhiều ngọn núi lạ lùng. 

Như ta biết sau thời Tam Quốc là thời Tây Tấn của Tư Mã Yêm. Năm 282 trong thời đó có một ẩn sĩ tên là Lưu Thái Ha mộng thấy một vị tăng người Ấn Độ chỉ đường đi tìm xá lợi của Phật. Ngày nọ Lưu Thái Ha đến núi Mậu sơn, nằm ở phía đông của Ninh Ba ngày nay, nghe dưới đấttiếng chuông khánh, đào lên thì thấy một bảo tháp, bên trong có một chung vàng chứa xá lợi Phật. Vì hơn bốn trăm trước, A-dục Vương tại Ấn Độ cho xây "tám vạn bốn ngàn tháp" thờ xá lợi Phật nên núi Mậu sơn ở Ninh Ba được đổi tên thành A-dục vương sơn. Về sau Lưu Thái Ha trở thành tăng sĩ, có tên sư Huệ Đạt, ông cất tinh xá thờ xá lợi. Năm 405, trong thời Nam Bắc triều, chùa chiền bắt đầu được xây dựng. Nhà vua Lương Vũ Đế, người hân hạnh được Bồ-đề đạt-ma giáo hóa, cũng cho xây thêm tự viện ở đây năm 522 và tặng tấm biển "A-dục vương tự". Về sau, vua Tống Cao Tông tự tay đề biển "Phật Đảnh Quang Minh chi tháp". 

Theo bước các vị cao tăng như Tỉnh Am đại sư, Hư Vân hòa thượng, tôi đến chùa A-dục đảnh lễ xá lợi. Kiến trúc của chùa ngày nay là từ thời nhà Thanh, tháp đựng xá lợi bằng gỗ đựng trong một tháp đá nằm trong xá lợi điện cao hơn 15m. Nơi đây trước khi mở tháp cho khách thập phương đảnh lễ các vị sư trong chùa tụng kinhthực hành nghi lễ rất công phu. Ngẩng đầu nhìn xá lợi treo trong tháp, tôi nhớ lại mình đã đến ngọn đồi con, chỗ làm lễ Trà tỳ (Lễ thiêu xác) đức Phật hơn 25 thế kỷ trước, nơi mà Huyền Trang nói rằng, ai nhất tâm sẽ tìm thấy xá lợi. Ngày nay trên đất Trung Quốc này của Huyền Trang, xa Câu-thi-na vạn dặm, tôi đã "tìm thấy" răng Phật gần Bắc Kinh, xá lợi Phật tại Ngũ Đài sơn và đây là lần thứ ba tại Ninh Ba trên bờ Nam Hải. 

Sau chùa ta còn tìm thấy nhiều bia đá mà bia xưa nhất là của năm 833 thuộc đời Đường. Qua nhà Tống, chùa A-dục là đạo trường của Lâm Tế tông, các vị thiền sư như Tông Cảo, Đức Quang, Sư Phạm đều đã giáo hóa nơi đây và trong giới đệ tử ngày đó có nhiều người từ Nhật Bản qua học. Trong số đó có một người tên là Minh Am Vinh Tây (Eisai, 1141-1215). Minh Am Vinh Tây chính là người khai sáng Thiền tông tại Nhật và truyền tông Lâm Tế (48) qua Nhật.

Mới 14 tuổi ông xuất gia, lên núi Tỉ Duệ tại Nhật học Thiên Thai tông. Sau đó ông thấy phải trực tiếp đi Trung Quốc. Năm 1168, ông lên đường đi Trung Quốc lần đầu, lúc đó chưa biết gì về Thiền tông cả. Hai mươi năm sau, ông đến Trung Quốc lần thứ hai, lần này ông lên chùa Vạn Niên ở núi Thiên Thai và được thiền sư Hư Am Hoài Sưởng ấn chứng, một vị thuộc tông Lâm Tế. Về nước ông soạn bộï Hưng thiền hộ quốc luận, là người đầu tiên truyền bá giáo lý Thiền tông tại Nhật. 

Cách Ninh Ba 35km về phía đông, không xa A-dục vương sơn bao nhiêu là một ngọn núi khác có tên là núi Thái Bạch. Khoảng năm 300 có một vị tăng tên là Nghĩa Hưng lập thảo am tu trên núi đó. Ngày nọ trên ngọn núi vắng người đó có một thiếu niên đến cúng dường củi lửa và lương thực. Nghĩa Hưng hỏi tên tuổi thì thiếu niên đó tự xưng là Thái Bạch. Vì thế núi được mang tên là núi Thái Bạch, am cỏ của Nghĩa Hưng có tên Thiên Đồng (thiếu niên cõi trời). Đến đời Đường, năm 575 lại có một vị tăng khác tên là Pháp Xán tu học ở đây cũng được vị thiếu niên này hầu hạ cúng dường nên núi Thái Bạch càng được hâm mộ. Chùa trên núi Thái Bạch kể từ đời nhà Minh mang tên Thiên Đồng tự. Ngày nay đến Thiên Đồng tự ta thấy ngôi chùa xây trong thời nhà Thanh (1644-1911). Trong chùa có tượng Phật tam thế, hiện tại quá khứvị lai

Chùa Thiên Đồng là nơi ghi dấu chân của nhiều vị thiền sư Nhật Bản mà quan trọng nhất là vị Đạo Nguyên Hi Huyền (49). Đó là một trong những vị thiền sư quan trọng nhất của Nhật, người đưa dòng thiền Tào Động (50) qua Nhật. Đạo Nguyên được tôn thờ là "đại bồ-tát" và có tư tưởng "thâm sâu và quái dị nhất". 

Đạo Nguyên mới lên bốn đã đọc thơ Đường, lên chín đọc A-tì đạt-ma (51). Lên 15 tuổi, Đạo Nguyên học giáo pháp của Thiên Thai tông nhưng không vừa ý. Đạo Nguyên tìm đến thiền sư Minh Am Vinh Tây. Vinh Tây nói với Đạo Nguyên: "Chư Phật không ai biết mìnhPhật tính, chỉ có súc sinh mới biết mình có Phật tính". Câu nói khó hiểu đó mà Đạo Nguyên nghe qua thì thấy có sáng sủa hơn đôi chút thì không may Vinh Tây chết trong năm đó. Năm 1223 Đạo Nguyên quyết thân hành sang Trung Quốc.

Đến chùa Thiên Đồng, ông nghe thiền sư Như Tịnh (52) khai thị "hãy xả bỏ thân tâm", Đạo Nguyên đại ngộ. Hai năm sau ông về nước, thành lập tông Tào Động tại đó. Học trò hỏi Pháp Phật, ông chỉ đáp "với hai bàn tay trắng ta trở về cố hương, chẳng có chút gì gọi là Phật pháp cả... mây tan núi hiện". Mặc dù "không có gì để nói" nhưng ông để lại Chính pháp nhãn tạng (Shobogenzo), một tác phẩm đồ sộ với 95 quyển, một kiệt tác của Thiền tông Nhật Bản

Sau núi A-dục và Thái Bạch gần Ninh Ba còn một ngọn núi huyền bí hơn nữa, đó là Thiên Thai sơn, cách khoảng 100km. Chúng ta thường nghe "Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai" thì đó chính là ngọn núi này. Huyền sử chép hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hậu Hán (25-250) đi hái thuốc trong núi này gặp tiên. Hai chàng ở với tiên nửa năm, nhớ nhà xin về thì hậu thế đã trải qua bảy đời rồi. Hai chàng trở lại núi thì không còn thấy tiên đâu nữa. Ngày nay người ta đến Thiên Thai sơn chắc chẳng còn ai được diễm phúc như hai chàng Lưu Nguyễn. 

Thiên Thai sơn không chỉ là trú xứ của tiên nữ, đó cũng là nơi ẩn tu của Tế Điên hòa thượng, của Hàn Sơn. Thiên Thai sơn là nơi núi rừng u thúy, thâm sâu hùng vĩ mà trong thời đại hưng thịnh nhất nơi đây có 72 ngôi tự viện, trong đó bốn ngôi được gọi là "tứ đại danh sát": Quốc Thanh, Vạn Niên, Thiên Phong và Cao minh tự

Thiên Thai sơn là tổ đình của phái Thiên Thai tông do Trí Khải (538-597) sáng lập. Thật ra Trí Khải là tổ thứ tư của Thiên Thai tông nhưng ông được xem là người thực sự sáng lập môn phái này. Ông là người đầu tiên trong Phật giáo Trung Quốc hệ thống các trường phái Phật giáo với các chủ trương khác nhau, trong đó Thiên Thai tông chủ trương lấy Diệu pháp liên hoa kinh làm cơ sở. Năm 576 Trí Khải về giáo hóa tại núi Thiên Thai và từ đó mà tông phái của ông có tên Thiên Thai tông. Trong số những người theo học Thiên Thai tông lại có một vị cao tăng xuất sắc người Nhật, tên là Tối Trừng (53). 

Tối Trừng du học tại Trung Quốc năm 804, nghiên cứu giáo pháp Hoa Nghiêm và cả Mật Tông nhưng ông tiếp thu Thiên Thai Tông sâu sắc nhất. Tối Trừng đến núi Thiên Thai tham học với Đạo Thúy, cao tăng đời Đường. Về lại Nhật Tối Trừng lập một thiền viện danh tiếng tại núi Tỉ Duệ (Hiei) và mất năm 822 tại đó. Tối Trừng để lại cho hậu thế khoảng 200 tác phẩm

Hiện nay tại Trung Quốc khách chiêm bái tìm thấy núi Thiên Thai với ngôi cổ tự Quốc Thanh xây năm 598. Chùa gồm có 14 điện, tượng lớn nhất là Thích-ca mâu-ni cao 6,8m từ đời nhà Minh. Ngoài ra ta còn tìm thấy 18 vị La Hán đẽo bằng gỗ từ thế kỷ 13, 14, trong đó có Tế Điên hòa thượng. Còn Thiền tông cũng như Thiên Thai tông đã suy tàn từ lâu. Tại Nhật Bản, Thiên Thai tông do Tối Trừng sáng lập, Thiền Lâm Tế do Vinh Tây và Thiền Tào Động do Đạo Nguyên khởi xướng đã bắt rễ nhanh chóng trong xã hội Nhật Bản. Và bất ngờ thay, Thiền Trung Quốc tắt lịm trong thế kỷ 12 thì tại Nhật nó bắt đầu có sức sống mãnh liệt.

Sau Vinh TâyĐạo Nguyên là các thiền sư Nhật Bản xuất sắc như Tâm Địa Giác Tâm (1207-1298), người đưa Vô môn quan sang Nhật, Nam Phố Thiệu Minh (1235-1309), người được Nhật Hoàng ban hiệu Đại Ứng quốc sư. Về sau vị thiền sư xuất chúng nhất của Nhật là Bạch Ẩn Huệ Hạc (Hakuin Ekaku, 1686-1769), người đã giác ngộ bằng công án Triệu châu cẩu tử (54), và cũng là người đã nêu lên công án "Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?". Bạch Ẩn là một thiên tài, ông đã phục hưng lại Thiền tông trong thế kỷ thứ 18 và là một họa sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ tạc tượng xuất chúng. 

Gần đây nhất ta có D.T. Suzuki (55) , người Nhật, là thiền sư đầu tiên của châu Á giới thiệu một cách có hệ thống Thiền tông đến với phương Tây mà tác phẩm hay nhất của ông phải là bộ Thiền Luận (56). Công trình của ông xuất sắc đến độ có người cảm phục nói "ông đã đưa được nhiều người đến cửa". Nhiều người phương Tây chỉ biết Thiền tông qua Suzuki, vì thế mà có kẻ lầm tông phái này bắt nguồn từ Nhật. Họ không ngờ rằng suối nguồn đầu tiên của Thiền tông Nhật Bản là những họat động của Vinh Tây, Đạo Nguyên cách đây hơn bảy trăm năm gần một thành phố mang tên Ninh Ba tại Trung Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34381)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16880)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22983)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13065)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22202)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14876)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23597)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24133)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23655)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17155)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19368)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27089)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14434)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13854)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14764)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17373)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12689)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13879)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10424)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14719)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17208)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12559)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12725)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10380)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28726)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10720)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11140)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16886)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15787)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13352)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11381)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19319)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12260)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28633)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10060)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21544)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12803)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17835)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26267)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11718)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10866)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22767)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12053)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10618)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant