Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Núi Mihintale, chiếc nôi của PG Sri Lanka

25 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21750)
Núi Mihintale, chiếc nôi của PG Sri Lanka

Vào thập kỷ thứ năm của thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, vua A Dục đã tổ chức Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba tại kinh đô Pataliputra. Tại đại hội kết tập lần này, những tranh chấp về một số vấn đề trong giáo pháp đã được giải quyết, các vị Tăng sĩ không thanh tịnh đã bị trục xuất khỏi Tăng đoànđặc biệt là đưa ra quyết định thành lập những đoàn Tăng sĩ đi truyền bá đạo Phật tại những quốc gia, những vùng lãnh thổ khác nhau. Tôn giả Mahinda, con trai của vua A Dục, đã được chọn làm trưởng đoàn của một đoàn truyền giáo đi đến các khu vực phía Nam. Vị Tăng sĩ hoàng gia này và những người bạn đồng hành đã rời Pataliputra và đi đến Videsha, nơi họ lưu lại trong một thời gian ngắn, có thể là họ đã ở lại tại tu viện lớn ở Sanchi. Theo sử liệu cho biết, phái đoàn có lẽ đã truyền bá Phật giáo một cách tích cực tại Videsha trong một thời gian trước khi đến Sri Lanka. Dù thế nào đi nữa thì phái đoàn chắc chắn đã đến Gokanna (Trincomalee cổ) và cuối cùng dừng lại ở núi Mihintale, cách Anuradhapura 13km về phía Đông.

Mihintale 6.jpg

Lối lên núi Mihintale.

Vua Devanampiya Tissa cùng với một số cận thần của ông đang đi săn trên núi thì bất ngờ bắt gặp những người lạ khoác áo choàng màu vàng. Nhà vua hơi sửng sốt trước các nhà sư, nhưng Tôn giả Mahinda đã trấn an vua: “Tâu đức vua, chúng tôitu sĩ, đệ tử của ấng Giác Ngộ. Chúng tôi đến từ Ấn Độ, đến đây với lòng thương yêu đối với đức vua và dân chúng của ngài”. Tâu đức vua với những lời trấn an như thế, rồi Tôn giả Mahinda hỏi đức vua một số câu hỏi để dò xét khả năng am tường của vua. Sau đó Tôn giả Mahinda giảng dạy cho đức vua và đoàn tùy tùng về những giáo pháp căn bản của đạo Phật. Sau khi lãnh thọ giáo pháp, vua Tissa đã cung thỉnh chư Tăng đến kinh đô Anuradhapura vào ngày hôm sau để giảng dạy giáo pháp cho gia đình hoàng gia. Thể theo lời mời của vua Tissa, ngày hôm sau Tôn giả Mahinda cùng chư Tăng đã tiến vào cung điện của vua và truyền dạy giáo pháp cho gia đình hoàng gia.

Tên ban đầu của núi Mihintale là Missaka Pabbata, sau đó thì được gọi là Cetiyagiri (miền núi của những ngôi tháp), và tên hiện tại của nó tất nhiên là có nguồn gốc từ Tôn giả Mahinda. Lúc ngài Pháp Hiển đến thăm Mihintale, có 2.000 tu sĩ sống trên núi. Ngài Mahinda đã dành những năm còn lại của cuộc đời mình ở trên núi Mihintale và viên tịch ở đấy vào năm 202 trước Tây lịch. Sau khi tổ chức tang lễ trọng đại, tro cốt của ngài đã được phụng thờ trong các bảo tháp trên khắp đất nước Sri Lanka, và lẽ đương nhiên là có một phần tro cốt được phụng thờ trong một bảo tháp trên núi Mihintale. Nhà vua Devanampiya Tissa đã cho tạo lập 68 hang động trên núi Mihintale để cho chư Tăng tu tập. Điều này được xác nhận trong một bài minh được khắc trên vách của một trong những hang động gần tháp Kantaka.

Mihintale 4.jpg

Một trong số 68 hang động ẩn tu thiền định của các Tăng sĩ

Trên núi Mihintale hiện còn lại dấu tích của một bệnh viện cổ. Tàn tích ấy hiện được bao quanh bởi những cây xoài xinh tươi. Kiến trúc của di tích cho thấy, cổng vào bệnh viện nằm ở phía Nam, tại đấy có một cái cổng dẫn đến khoảng sân bên ngoài. Bên phải là di tích của những bồn tắm nước nóng hoặc là tắm xông hơi. Theo sử liệu cho biết, bệnh viện này có phòng cho 27 bệnh nhân và bốn phòng lớn hơn được sử dụng vào các mục đích khác được xây dựng xung quanh một cái sân nhỏ, và có một ngôi điện Phật nhỏ ở chính giữa sân. Trong phòng lớn ở phía Đông bắc là một bồn trị liệu bằng dược thạch. Các bệnh viện như thế này không phải là để phục vụ công chúng mà là để chăm sóc và điều dưỡng cho chư Tăng và những người làm việc trong các tu viện ở đấy.

Trên núi Mihintale có một đường bậc cấp bằng đá dẫn lên núi rất vĩ đại. Đường bậc cấp này dài hơn 300 mét và có đến 1.840 bậc cấp. Đây là một trong những đường bậc cấp lớn nhất và ấn tượng nhất mà chúng ta rất hiếm thấy ở những nơi khác. Nhìn những bậc cấp ấy, chúng ta có thể hình dung được sự gian lao và sức mạnh, cùng trí tuệ của con người đã dày công tạo dựng nên nó. Phía bên trái của đường bậc cấp ấy có nhiều cột trụ của các tu viện bị đổ nát còn lưu lại. 

Mihintale 1.jpg

 Tượng Đại Phật trên núi Mihintale

Đi theo con đường bậc cấp rồi quẹo trái là di tích của khu nhà trù của chư Tăng. Dọc theo bức tường phía Bắc và phía Đông của phòng ăn có hai cái máng cơm bằng đá rất lớn, có chiều dài gần 7 mét. Kích thước của các máng cho thấy rằng chúng đã cung cấp cơm cho một số lượng rất lớn các nhà sư, và chắc hẳn là hai cái máng này có kích thước lớn nên đã không thể đặt trong nhà trù có kích thước khá khiêm tốn tại đấy. Có lẽ là chư Tăng đến nhận thức ăn ở đấy rồi đến một nơi khác để ăn. Trong một ghi chú lịch sử cho biết rằng, có 12 đầu bếp làm việc tại nhà trù này. Bên cạnh đó còn có một người giám sát và một vài người phục dịchnhiệm vụ cung cấp củi cho nhà bếp.

Từ nhà trù đi theo một đường bậc cấp dẫn trực tiếp đến ngôi chánh điện chính của núi Mihintale. Ở hai bên cửa đi vào chánh điện có hai phiến đá lớn, trên đấy khắc một bài minh dài. Bề mặt của các phiến đá được đánh bóng và những dòng chữ trên đấy được khắc rất đẹp. Bài minh được khắc trên hai phiến đá ấy là do vua Mahinda đệ tứ viết. Đấy là một trong những bài viết dài nhất và hấp dẫn nhất trong thời cổ đại của Sri Lanka hiện còn lưu lại. Bài minh cho chúng ta biết nhiều về đời sốngsinh hoạt của cộng đồng Tăng lữ tại núi Mihintale.


mihintale_7-content

 Dụng cụ chứa cơm bằng đá dài đến 7m trên núi Mihintale.

Dưới chân núi có một bể chứa nước với hình sư tử bằng đá cố định trong tư thế vồ lấy bể chứa nước ở phía trên nó. Hình con sư tử và một phần của bể chứa nước được tạc từ nguyên một phiến đá lớn. Vì phiến đá đã bị cắt một mặt nên không đủ để tạo nên bể chứa nguyên vẹn, do vậy mà một phiến đá khác được ghép vào để tạo nên bể chứa. Phiến đá thứ hai ấy được ghép một cách rất hoàn hảo, cho nên nước không bị rò rỉ ra ngoài. Xung quanh miệng của bể chứa có trang trí, chạm trổ hình ảnh các vũ công, đô vật, voi, các ngôi sao và các nhạc công. Nước được dẫn từ hồ Naga ở trên núi vào bể chứa và từ đó phun ra theo miệng của con sư tử. Nước này không dùng vào việc ăn uống, chỉ dùng vào việc tắm, giặt.

Hồ Naga vốn là một hồ nước tự nhiên nho nhỏ nằm ở trên núi Mihintale. Do nhu cầu về nguồn nước để sử dụng cho sinh hoạt của chư Tăng ở trên núi Mihintale cho nên người ta đã mở rộng và tôn tạo hồ nước tự nhiên ấy bằng cách đắp bờ xung quanhđào sâu hơn. Ở mặt giáp với vách núi của hồ có tạc hình dạng bảy cái đầu của thần rắn Naga nhô ra khỏi vách núi đá, chính vì vậy mà hồ nước này được gọi là hồ Naga.

Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale. Trên nền của cái động ấy có tạc một khối đá hình chữ nhật với ý nghĩa biểu trưng cho cái y được gấp lại và Tôn giả Mahinda đã từng nằm trên đó.

Một công trình khác cũng có giá trị lịch sử, văn hóa vô cùng quan trọng tại núi Mihintale, đó là tháp Khantika. Tháp Khantika cho du khách biết đến một trong những công trình điêu khắc cổ xưa nhất của đất nước Sri Lanka. Người ta không biết chính xác ai là người đã tạo dựng ngôi tháp này và tạo dựng vào lúc nào. Tài liệu đề cập đến ngôi tháp này lần đầu tiên là vào thời Lanjatissa (109-119).

Và như đã nói ở trên, để chuẩn bị cho việc lưu trú của ngài Mahinda và chư Tăng, vua Devanampiya đã cho tạo dựng nhiều hang động ở trên núi Mihintale. Hiện tại nhiều hang động vẫn còn tồn tại và được bảo tồn khá tốt.

Hiện nay, núi Mihintale là một trong những di tích lịch sử quan trọng của Sri Lanka và là điểm hành hương du lịch thu hút đông đảo khách hành hương trong nước cũng như quốc tế.

Tài liệu tham khảo:
Ven. S Dhammika, Mihintale, http://www.buddhanet.net
Aryadasa Ratnasinghe, The arrival of Buddhism in Sri Lanka, http://www.lankalibrary.com
Wilhelm Geiger (translator), Mihintale: The cradle of Buddhism in Sri Lanka, http://www.lankalibrary.com

Minh Nguyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11256)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13594)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13748)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22224)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17791)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11742)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23297)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28599)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22782)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25728)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14004)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13443)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22493)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26405)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18493)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18970)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34528)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27398)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28434)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21401)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19224)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10623)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18582)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15668)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14031)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11796)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11636)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11347)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11905)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19952)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12402)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13278)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31997)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13445)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13339)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21876)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11099)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12910)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
(Xem: 14878)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant