Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần thứ hai

24 Tháng Ba 201200:00(Xem: 9062)
Phần thứ hai
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU
Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS
Éditions Brepols, Paris. 1996
Người dịch: Vĩnh An

PHẦN THỨ HAI


Buổi sáng, Đức ngài đến không chậm trễ. Trước khi chú giải một đoạn Phúc Âm theo thánh Matthêô, ngài đưa một vài nhận xét mở đầu. Suốt thời gian hội thảo, ngài đã nhiều lần nhấn mạnh mục đích của ngài không phải là cải giáo các Kitô hữu tham dự hội thảo thành Phật tử, nhưng là trình bày quan điểm của một tu sĩ Phật giáo về những đoạn văn được đề nghị.

Đức Đạt Lai Lạt Ma : “Vì cuộc đối thoại này được World Community for Christian Meditation tổ chức và vì phần lớn là các Kitô hữu hành đạo tham gia nghiêm túc trong một tiến trình của đức tin, nên sự trình bày của tôi ưu tiên sẽ gởi đến họ. Tôi sẽ thử giải thích thế nào là các kỹ thuật và phương pháp của Phật giáo có thể được một Kitô hữu hành đạo chấp nhận mà không cần phải hội nhập vào triết lý sâu xa của Phật giáo. Những sự khác nhau sâu sắc về triết lý siêu hình giữa hai truyền thống dĩ nhiên sẽ xuất hiện trong quá trình thảo luận theo nhóm.

“Mối quan tâm chính của tôi là như sau : tôi có thể giúp đỡ và phục vụ Kitô hữu hành đạo như thế nào ? Gieo rắc sự nghi ngờchủ nghĩa hoài nghi trong tâm trí người khác là điều tôi không bao giờ muốn. Như tôi đã nói trước đây, tôi tuyệt đối xác tín rằng sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo hiện nay là quý giá và thích đáng. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tất cả các truyền thống tôn giáo lớn của thế giới nói một thứ ngôn ngữ và gửi đến một thông điệp chung mà chúng ta có thể dựa vào để xây dựng một sự hòa thuận nhau thật sự.

“Nói chung, tôi muốn rằng người ta không nên rời bỏ tôn giáo đã trở nên một thành phần của văn hóadi sản của họ. Đương nhiên, cá nhân được toàn quyền thay đổi tôn giáo nếu một tôn giáo khác tỏ ra hiệu quả hơn và thích hợp hơn với nhu cầu tâm linh của người ấy. Nhưng một cách tổng quát, tốt hơn vẫn là thực hành kinh nghiệm về giá trị của truyền thống tôn giáo của mình. Đây là một ví dụ cho thấy sự khó khăn mà sự thay đổi tôn giáo có thể gây ra : trong một gia đình Tây Tạng, vào những năm sáu mươi, người cha của gia đình qua đời, sau đó ít lâu, người mẹ đến tìm tôi. Bà đã tuyên bố với tôi rằng kiếp này bà theo đạo Chúa nhưng qua kiếp sau bà không có chọn lựa nào khác hơn là theo đạo Phật. Sao mà phức tạp như vậy ! Nếu bạn là Kitô hữu, tốt hơn hết bạn nên triển khai tâm linh trong khuôn khổ của tôn giáo bạn và là một Kitô hữu tốt lành, chân chính. Nếu bạn là Phật tử, bạn hãy là một Phật tử đích thực. Đừng nên nửa nạc nửa mỡù ! Như thế chỉ tạo nên sự lộn xộn trong tinh thần của bạn.

“Trước khi chú giải bản văn, tôi muốn nói đôi điều về sự tham thiền. Ngôn ngữ Tây Tạng chỉ sự tham thiền là gom, nó gợi lên sự phát triển thân quen thường trực với một sự thực hành hay với một đối tượng đặc biệt. Tiến trình “thân mật hóa” là chủ yếu bởi vì sự tinh luyện hay khai mở tinh thần tùy thuộc vào việc gia tăng sự thân quen với đối tượng được lựa chọn. Bởi thế, chỉ có sự áp dụng kiên trì các kỹ thuật tham thiền và sự huấn luyện kiên trì tinh thần mới có thể đưa đến sự biến đổi nội tâm, thiết lập kỷ luật cho tinh thần. Trong truyền thống Tây Tạng, một cách sơ lược, có hai loại tham thiền lớn. Một loại cần mức độ phân tích và lý luận nào đó ; người ta còn gọi đó là trầm tư chiêm niệm hay phân tích. Loại thứ hai là một trạng thái hấp thụ và tập trung ; người ta gọi đó là trầm tư trên một điểm hay hành động tịnh tâm.

“Chúng ta hãy lấy một ví dụ như sự tham thiền về tình yêu và lòng thương xót trong bối cảnh Kitô giáo. Khi tham thiền theo cách phân tích, chúng ta đi theo những hướng tư duy đặc biệt như : để thật sự yêu Thiên Chúa, cần phải thể hiện tình yêu ấy bằng hành động yêu thương chân thật anh em nhân loại của mình. Người ta cũng có thể suy nghĩ về cuộc đờigương sáng của Đức Giêsu Kitô trong bản thân ngài, ngài đã sống và hoạt động như thế nào để đem lại lợi ích cho chúng sinh, và các hành động của ngài đã minh họa một phong cách sống tràn đầy lòng thương xót. Loại tiến trình suy niệm ấy tạo thành khía cạnh phân tích của thiền định về lòng thương xót. Người ta có thể tham thiền theo các tương tự về lòng nhẫn nại và lòng khoan dung.

“Nhờ có những suy tư đó, các bạn ngày càng xác tín vào sự quan trọng và giá trị của lòng thương xót và lòng khoan dung. Một khi đã đạt tới niềm xác tín tuyệt đối về giá trị và sự thiết yếu của lòng thương xótkhoan dung, các bạn sẽ có cảm giác được xúc chạm và biến đổi từ bên trong. Ở giai đoạn này, các bạn cần phải tập trung tinh thần trên xác tín duy nhất đó, không vận dụng đến sự phân tích khác. Một khía cạnh chính xác hơn, tinh thần phải ở trong thế quân bình hoàn hảo, tập trung trên một điểm – đó là khía cạnh đắm mình hay duy trì sự thiền định trên lòng thương xót. Như thế cả hai loại thiền định đều được áp dụng trong cùng một buổi tham thiền.

“Tại sao chúng tathể không chỉ triển khai mà còn tinh luyện lòng thương xót bằng việc áp dụng những kỹ thuật tham thiền vừa kể ? Bởi vì lòng thương xót là một loại cảm xúc có tích chứa một tiềm lực để khai mở. Về đại thể có hai loại cảm xúc. Một loại thì nghiêng về bản năng và không có nền tảng lý trí. Loại kia như lòng thương xótkhoan dung thì ít bản năng hơn và dựa vững chắc vào lý tríkinh nghiệm. Khi người ta thấy rõ ràng những lý lẽ hợp lý khác nhau của việc triển khai các đức tính ấy và khi người ta xác tín vững vàng những lợi ích mà các đức tính ấy mang lại, lúc bấy giờ các cảm xúc ấy được thanh luyện. Đồng thời xảy đến sự nối kết giữa trí và tâm. Lòng thương xót biểu lộ cảm xúc, hay cái tâm, và việc áp dụng sự trầm tư phân tích thuộc về cái trí. Khi người ta đã đi đến giai đoạn thiền định lúc lòng thương xót được tinh luyện, người ta chứng kiến sự hợp nhất đặc biệt của trí và tâm.

“Nếu giờ đây người ta khảo sát bản chất của các trạng thái thiền định ấy, người ta nhận thấy chúng hình thành bởi các yếu tố khác nhau. Vậy thì, chúng ta hãy lấy ví dụ của tiến trình phân tích để suy nghĩ rằng chúng ta đều là những con người, những tạo vật của cùng một Đấng Tạo Hóa và vì thế thật sự là anh em và chị em của nhau. Trong trường hợp này, các bạn tập trung tinh thần của các bạn trên một đối tượng riêng biệt. Nói cách khác, chủ thể phân tích tập trung trên ý tưởng hay khái niệm được phân tích. Tuy nhiên, khi đã đạt đến tình trạng tập trung trên một điểm duy nhất – khi các bạn cảm thấy sự biến đổi nội tâm ấy, lòng thương xót ấy bên trong các bạn – thì sẽ không còn một tâm thức trầm tư và một đối tượng được trầm tư. Thay vào đó, tâm thức trầm tư của các bạn giàn trải ra dưới hình thức của lòng thương xót.

“Tôi xin kết thúc những nhận xét mở đầu về sự thiền định. Giờ đây tôi sẽ đọc bài Phúc Âm.

“Các ngươi đã nghe bảo rằng : Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn ta, ta bảo các ngươi đừng cự lại người ác. Nếu ai vả má phải ngươi, thì hãy giơ má kia cho nó nữa. Nếu ai muốn kiện ngươi để đoạt áo lót, thì hãy bỏ cả áo choàng cho nó. Nếu ai bắt ngươi đi làm phu một dặm thì hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, ngươi hãy cho ; người muốn vay, ngươi chớ khước từ.” [Matthêô 5, 38-42]

Đức Đạt Lai Lạt Ma : “Những cách thực hành lòng khoan dung và nhẫn nại mà đoạn Phúc Âm này khuyên làm vô cùng giống với những cách thực hành lòng khoan dung và nhẫn nại mà Phật giáo nói chung khuyên làm. Đặc biệt chính đại thừa Phật giáo trong bối cảnh lý tưởng bồ tát đã khuyến khích dùng sự bất bạo độnglòng từ bi đáp trả lại người làm điều ác đối với chúng ta. Trong một chừng mực nào đó, đoạn văn này có thể được đưa vào trong một sách luận của Phật giáo mà chắc không ai nhận ra nguồn gốc Kitô giáo của nó.

“Các ngươi đã nghe bảo : Hãy yêu mến người thân cận, và hãy ghét kẻ thù địch. Còn ta, ta bảo các ngươi : Hãy yêu mến kẻ thù địch [hãy làm điều lành cho những ai ghét các ngươi], hãy cầu nguyện cho những người [ngược đãi và] bách hại các ngươi. Như thế, các ngươi sẽ trở nên con cái của Cha các ngươi ở trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ cũng như trên người lành và làm mưa trên người công chính và trên kẻ gian tà. Nếu các ngươi chỉ yêu mến những kẻ yêu mến các ngươi thì các ngươi có công đức gì ? Há những người thu thuế cũng không làm như thế sao ? Nếu các ngươi chỉ chào hỏi anh em các ngươi, thì các ngươi có làm gì khác thường đâu ? Há người ngoại (đạo) cũng không làm thế sao ? Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành.” [Matthêô 5, 43-48]

“Điều này nhắc tôi nhớ đến một đoạn văn trong một sách luận của Phật giáo đại thừa là Bản trích yếu thực hành trong đó Shantideva hỏi “nếu các ngươi không thực hành lòng từ bi với kẻ thù các ngươi thì các ngươi thực hành với ai ?” Người ta còn hiểu ngầm rằng ngay cả súc vật cũng biểu lộ sự yêu thương, từ bi và một tình cảm cộng thông đối với những người và vật mà chúng yêu thích. Nếu chúng ta tự hào mình là những người hành đạo tâm linh, tình nguyện bước vào con đường tâm linh, chúng ta phải chứng tỏ mình có thể làm tốt hơn các súc vật.

“Đoạn trích dẫn Phúc Âm này cũng nhắc tôi nhớ đến những suy nghĩ của một sách luận đại thừa khác tên là Bồ Tát đạo, trong đó Shantideva khẳng định có được một thái độ đúng đắn với kẻ thù là một điều quan trọng. Nếu các bạn biết vun trồng thái độ ngay lành, kẻ thù của các bạn sẽ trở thành những người thầy tâm linh tốt nhất bởi vì sự hiện diện của họ cho các bạn cơ hội thăng tiến lòng khoan dung, sự nhẫn nại và hiểu biết. Khi đạt được sự nhẫn nại và khoan dung nhiều hơn, các bạn sẽ dễ dàng phát triển năng lực của lòng từ bi, và nhờ đó phát triển sự đồng cảm của mình. Như thế, ngay cả việc thực hành con đường tâm linh, sự hiện diện của kẻ thù là chủ yếu. Hình ảnh loại suy mà Phúc Âm sử dụng với “mặt trời chiếu sáng không phân biệt” rất quan trọng. Đấy là một ẩn dụ tráng lệ về lòng từ bi. Nó làm cho ta hiểu được lòng từ bi thì vô tưtoàn diện.

“Khi đọc các đoạn văn này, tôi thấy Phúc Âm đặt nặng sự thực hành lòng khoan dung và đề cao tình cảm vô tư, không thiên vị đối với mọi tạo vật. Theo ý kiến của tôi, để triển khai năng lực khoan dung đối với mọi người, và đặc biệt đối với một kẻ thù, điều kiện quan trọng tiên quyếttiếp nhận mọi người với tính bình đẳng. Nếu người ta nói với các bạn rằng không nên thù nghịch kẻ thù mà phải yêu mến hắn, chỉ khẳng định như thế sẽ không khuyến khích các bạn thay đổi. Đối với mỗi người chúng ta, cảm thấy sự thù nghịch đối với những người làm khổ bạn và có cảm tình đối với những người yêu thương bạn là hoàn toàn tự nhiên. Đây là một tình cảm tự nhiên của con người. Vậy chúng ta phải sử dụng các kỹ thuật hiệu quả để giúp chúng ta vượt qua từ sự thiên vị nội tại trong bản tính đến một tình trạng bình đẳng cao nhất.

“Nhiều kỹ thuật đặc biệt cho phép triển khai tánh bình đẳng đối với mọi chúng sinh. Trong khuôn khổ Phật giáo, người ta có thể dùng đến khái niệm tái sinh để giúp chúng ta thực hiện tính bình đẳng. Tuy nhiên, vì chúng ta đang bàn luận trong khuôn khổ Kitô giáo, đã hẳn có thể nêu lên ý tưởng Sáng tạo theo đó tất cả mọi tạo vật đều bình đẳng vì đều là các tạo vật của cùng một Thiên Chúa. Khởi từ niềm tin ấy, người ta có thể thăng tiến trong tính bình đẳng. Ngay trước buổi họp này, tôi đã có một cuộc trao đổi ngắn với Cha Laurence. Cha đã giải thích với tôi rằng trong thần học Kitô giáo, người ta cho rằng mọi con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa – Tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bản tính Thiên Chúa. Điều này theo tôi dường như hoàn toàn tương tự với ý niệm Phật tánh trong Phật giáo. Niềm tin cho rằng mọi người đều tham dự vào cùng một bản tính Thiên Chúa, đem lại cho chúng ta một nền tảng vững chắc, một lý lẽ mạnh mẽ để tin rằng mỗi người chúng ta có thể thủ đắc một ý nghĩa đúng đắn về tính bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

“Tuy nhiên, chúng ta không nên quan niệm sự bình đẳng của tâm hồn như một mục đích tự thân. Cũng không nên nghĩ rằng mình phải theo đuổi một tình trạng hoàn toàn vô cảm trong đó chúng ta không có chút tình cảm hoặc cảm xúc thay đổi đối với kẻ thù hay bè bạn. Đấy không phải là mục đíchchúng ta tìm kiếm. Điều chúng ta tìm kiếm trước tiên là mong muốn xây dựng nền tảng, sử dụng một cánh đồng trống để sau đó chúng ta sẽ vun trồng những tư tưởng khác. Tính bình đẳng là mảnh đất bằng phẳng mà chúng ta chuẩn bị trước tiên. Rồi trên nền tảng ấy, chúng ta phải suy nghĩ về giá trị của lòng khoan dung, nhẫn nại, tình thương yêu, lòng từ bi đối với tất cả mọi người. Chúng ta cũng phải xem xét sự bất lợi, tiêu cực của tư tưởng vị kỷ, của những cảm xúc rối loạn giao động đối với bạn bè và kẻ thù, và các tiêu cực do sự thiên vị đối với những người khác.

“Điểm chủ yếu là ở chỗ cách thức sử dụng tính bình đẳng nền tảng ấy. Điều quan trọng là việc tập trung trên những tiêu cực của giận dữ, thù hận tạo thành những trở ngại chính cho sự triển nở năng lực của lòng từ bi và khoan dung. Chúng ta cũng phải suy nghĩ đến những giá trị và những đức hạnh khi đào sâu lòng khoan dung và nhẫn nại. Điều này có thể thực hành trong khuôn khổ Kitô giáo mà không cần sự hỗ trợ của niềm tin tái sinh : Thiên Chúa đã dựng lên các bạn là những cá nhân và cho các bạn sự tự do hành động hài hòa với các ước nguyện của mình – hành động một cách đạo đức, phù hợp với luân lý và sống một cuộc sống xứng đáng là một cá nhân thấm nhuần đạo đức và có trách nhiệm. Khi cảm nhận và thực hành lòng khoan dung và nhẫn nại đối với đồng loại, các bạn hoàn thành ước nguyện này : làm hài lòng Đấng Tạo Hóa của các bạn. Mặt khác : đó là tặng vật đẹp nhất, của lễ tốt nhất mà các bạn có thể dâng lên Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của các bạn.

“Trong Phật giáo, người ta thấy có ý tưởng gọi là của lễ thực hành (drupai chošpa) theo đó mọi của lễ cúng dường mà người ta có thể dâng lên một đấng mà người ta tôn kính – của lễ vật chất, bài ca chúc tụng và tặng vật khác – của lễ đẹp nhất chính là sống một cuộc sống phù hợp với những nguyên tắc của đấng đó. Trong khuôn khổ của Kitô giáo, khi sống một cuộc đời thấm nhuần đạo đức, đặt nền tảng trên lòng khoan dung và nhẫn nại, trong ý nghĩa đó, các bạn đã dâng lên Đấng Tạo Hóa của các bạn một của lễ tuyệt vời. Chắc chắn, điều đó sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ đọc kinh cầu nguyện. Nếu các bạn cầu nguyện mà không sống phù hợp với lời cầu nguyện thì chẳng có ích lợi gì lớn lao.

“Một trong những thiền sư lớn của Phật giáo Tây Tạng là Milarepa khẳng định trong một bài ca kinh nghiệm tâm linh : “Về của lễ vật chất, tôi chịu trắng tay ; tôi không có gì để cúng dường. Điều tôi có thể dâng lên dồi dào, đó là của lễ của sự thực hành tâm linh.” Về đại thể, chúng ta thấy rõ rằng một người có được nguồn dự trữ to lớn của lòng nhẫn nạikhoan dung sẽ hưởng được một mức nào đó của sự bình anthanh tịnh. Một người như thế không chỉ hạnh phúc và có cảm xúc ổn định mà còn có sức khỏe tốt, ít bệnh tật. Con người ấy có được một ý chí mạnh mẽ, ăn ngon, ngủ yên với một lương tâm trong sáng. Đó là những lợi ích của lòng khoan dung và nhẫn nại mà chúng ta có thể nhận thấy trong cuộc sống mỗi ngày.

“Một trong những xác tín nền tảng của tôi là bản tính nhân loại căn bản hướng về lòng từ bi và thương yêu. Bản tính nhân loại căn bản thì hiền lành và không gây hấn, bạo động. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều mà Cha Laurence đã nói nhân loại chia sẻ cùng một bản tính Thiên Chúa. Tôi sẽ nói thêm rằng khi xem xét tương quan giữa tinh thần, ý thức hay thân xác, người ta nhận thấy rằng những thái độ, cảm xúctinh thần lành mạnh liên hệ chặt chẽ với sức khỏe thể xác và sinh thú. Chúng gia tăng sự thoải mái của thể xác, trong khi những thái độ cảm xúc tiêu cực hay không lành mạnh như sự giận dữ, lòng thù ghét, những tình trạng tinh thần rối loạn làm mòn mõi sức khỏe thân xác. Mối tương quan ấy cho thấy rõ bản chất nhân loại căn bản rất gần với những thái độcảm xúc lành mạnh.

“Sau khi đã suy nghĩ về những đức tính như lòng khoan dung, nhẫn nại và tin chắc vào sự cần thiết phải phát triển và gia tăng các đức tính ấy nơi bản thân mình, kế đó là phải xem xét các loại và mức độ của lòng nhẫn nạikhoan dung. Vì thế, các sách luận Phật giáo mô tả ba loại khoan dung và nhẫn nại. Loại thứ nhất là trạng thái lãnh đạm không gì lay chuyển được – người ta có khả năng chịu đựng mọi đau khổ mà không bị nhấn chìm. Đó là trình độ thứ nhất. Trong trạng thái thứ hai, hành giả không những có thể chịu đựng nhiều đau khổ, nhưng nếu cần còn sẵn sàng kể cả ước mong đảm nhận những thử thách, nhọc nhằn và đau khổ của con đường tâm linh. Điều đó có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận các thử thách để đạt đến một mục đích cao hơn. Loại thứ ba là lòng nhẫn nạikhoan dung sinh ra do một xác tín vững vàng về bản chất của thực tại. Trong thực hành Kitô giáo, loại nhẫn nại này có nền tảng là đức tin vững vàng trong mầu nhiệm Sáng tạo. Mặc dù sự phân biệt giữa ba trình độ của lòng khoan dung là việc của các tác giả Phật giáo, nhưng cũng có thể chuyển sang bối cảnh của Kitô giáo. Điều này đặc biệt đúng với loại nhẫn nại – khoan dung thứ hai – tự do đảm nhận những thử thách của con đường tâm linh – dường như đây cũng là vấn đề trong đoạn văn sau đây : các mối Phúc thật của Phúc Âm Thánh Matthêô.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13587)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13736)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22211)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21869)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27375)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17774)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11734)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12328)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25246)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23274)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22769)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25700)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13989)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13433)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18471)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34508)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27376)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28421)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21371)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14894)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19213)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10618)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18574)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11792)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11632)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11341)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11890)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12394)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31979)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13436)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13332)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11898)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21864)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11093)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12900)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant