Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Tìm cầu sự giác ngộ vị tha: Bước thứ bảy

28 Tháng Năm 201200:00(Xem: 7889)
14. Tìm cầu sự giác ngộ vị tha: Bước thứ bảy
TÌM CẦU SỰ GIÁC NGỘ VỊ THA
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Bước thứ bảy: 
TÌM CẦU SỰ GIÁC NGỘ VỊ THA
Khuynh hướng vị tha là tìm cầu
sự giác ngộ vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sinh
- DI LẶC, Trang Hoàng cho Sự Thân Chứng Rõ Rệt

 

Một khi đã phát sinh thái độ vị tha đặc biệt là tự chúng ta phải mang đến lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng việc giải thoát họ khỏi khổ đau và nối kết họ với hạnh phúc, chúng ta phải lượng định chúng ta có khả năng để hoàn thành điều này hay không trong tình trạng hiện tại. Hầu hết chúng ta thường sẽ quyết định rằng chúng ta không có. Thế thì tiến hành như thế nào?

Giúp người khác không giới hạn trong việc cung cấp thực phẩm, chỗ ở, v.v... mà bao gồm giảm thiểu những nguyên nhân căn bản của khổ đau và cung ứng những nguyên nhân căn bản của hạnh phúc. Với việc quan tâm đến việc mang đến những lợi ích như vậy cho người khác như thế nào, chính quan điểm của Đạo Phật là niềm vui sướng hay khổ đau của một người được đạt đén bởi chính người ấy mà không phải được phát sinh từ bên ngoài và do thế, chúng sinh tự họ phải thấu hiểu và áp dụng sự thực tập để mang đến hạnh phúc cho chính họ. Giống như trong xã hội, bổ sung với việc ban cho thực phẩm, áo quần, và chỗ ở, chúng ta cố gắng để giáo dục con người vì thế họ có thể chăm sóc đời sống chính họ, vì vậy trong việc thực hành lòng vị tha phương pháp hiệu quả nhất để giúp đỡ người khác là qua sự giảng dạy về những gì nên được tiếp nhận trong việc thực hành và những gì nên được loại bỏ khỏi thái độ hiện tại.

Để giảng dạy điều này đến mọi người, đầu tiên chúng ta phải biết vị thế và sự quan tâm của họ và có nhận thức trọn vẹn lợi ích của việc thực hành. Do vậy, thật cần thiết để đạt đến giác ngộ mà trong ấy các chướng ngại để thực chứng rằng mọi thứ có thể tri nhận được loại bỏ hoàn toàn (sở tri chướng). Điều này đánh thức cho một khả năng đầy đủ của chính chúng ta để hoàn toàn nhận ra bản chất của tất cả mọi ngườimọi vật cùng việc tiêu trừ tất cả những chướng ngại để giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồikiến thức tròn vẹn. Đây là cách để chúng ta đi đến quyết định rằng, nhằm để đem đến lợi ích cho người khác trong một cách trọn vẹn, thật cần thiết để đạt đến giác ngộ.

Khi chúng ta tiếp nhận quan điểm căn bản rằng vì lợi ích của tất cả chúng sinh, chúng ta tìm cầu để đạt đến giác ngộ, thì chúng ta đạt đến một khuynh hướng vị tha để trở nên giác ngộ. Sự phát sinh thái độ này là vấn đề cuối cùng của bước thứ bảy.

QUYẾT ĐỊNH ĐẠT ĐẾN GIÁC NGỘ

Một thái độ vị tha mạnh mẽ mà trong ấy chúng ta hứa nguyện tìm cầu Quả Phật vì lợi ích của người khác được xây dựng trên sự quyết tâm đạo đức của việc chính mình đảm nhận gánh nặng vì lợi ích của người khác. Điều ấy, lần lượt, phát sinh từ lòng bi mẫntừ ái chẳng hạn như chúng ta không thể chịu nổi khi thấy sự biểu hiện khổ đau của người khác hay sống với kiến thức rằng họ bị đè nặng bởi những điều kiện không muốn nội tại đưa đến kết quả khổ đau và giới hạn. Phát triển cảm giác này về sự khổ đau của người khác lệ thuộc trên việc thấy tất cả chúng sinh gần gũi với chúng ta, như người thân nhất, và muốn đền đáp lại lòng ân cần tử tế của họ. Điều này tự nó phát sinh từ lần đầu tiên thấy chúng sinh trong một cung cách bình đẳng. Do thế, cho điều này, bước thứ bảy chúng ta bắt đầu bằng việc ôn lại những bước trước đây. 

Thiền Quán

Căn cứ trên sự thực tập trước đây, bây giờ chúng ta có thể đem tất cả những bước trước đây trong tâm trong một cách tóm lược với cảm giác mạnh mẽ

Bước nền tảng: Tính Bình Đẳng

1- Từ chính quan điểm của họ người thân, kẻ thù, và người trung tínhbình đẳng trong việc muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.

2- Từ chính quan điểm của chúng ta mỗi người trong họ đã là người thân của chúng ta vô số lần qua vòng luân hồi từ vô thỉ kiếp và chắc chắn sẽ giúp đỡ chúng ta một lần nữa trong tương lai; mỗi người bình đẳngkẻ thù của chúng ta; và mỗi người bình đẳngtrung tính.

3- Vì từ bất cứ vị thế nào được liên hệ, từ chính chúng ta hay chính họ, không có điềm nào trong việc phóng đại những cảm giác mật thiết hay xa cách. Chúng ta không nên đánh giá một người như tốt lành một cách căn bản và một người khác như xấu xa, hữu ích hay tổn hại. Không có lý do gì để là dễ thương từ cõi lòng đến một người và dễ ghét đến một người khác. Mặc dù đúng là mọi người là bạn hữu hay thù địch tạm thời - hữu ích hay tổn hại - thật là một lỗi lầm để sử dụng tình trạng hay thay đổi này như căn bản cho một sự hấp dẫn hay thù ghét cứng nhắc.

Bước đầu tiên: Nhận ra người thân

1- Phản chiếu rằng nếu có sự tái sinh, những sự sinh ra của chúng ta trong cõi luân hồi là không có chỗ bắt đầu (vô thỉ sinh tử).

2- Lưu tâm rằng khi chúng ta được sinh ra từ một bào thai của một người hay một con thú, hay chúng ta được sinh ra từ một quả trứng, chúng ta đòi hỏi một bà mẹ. Vì sự sinh của chúng ta là không thể đếm được, chúng ta phải có vô số bà mẹ trải qua phạm vi của nhiều kiếp sống ấy. Hàm ý ở đây là mỗi chúng sinh đã từng là bà mẹ của chúng ta vào một kiếp sống nào đấy. Nếu ta có rắc rối khi đi đến kết luận này, hãy thấy chúng ta có thể tìm ra một lý do tại sao bất cứ một chúng sinh nào đó đã không từng là bà mẹ của ta, một kết luận như vậy là không thể được.

3- Dẫn đến một kết luận vào những lúc ta được sinh ra từ một quả trứng hay một bào thai là vô hạn những con số, và do thế những bà mẹ của chúng ta cũng vô giới hạn trong con số.

4- Phản chiếu trên những điểm này, hãy thấu hiểu rằng mỗi chúng sinh đã từng là bà mẹ của ta nhiều lần. Hãy thực hiện điều này:

 * Đem đến tâm một người thân nhất và xác định rằng người thân này, tại một thời điểm nào đấy trong sự tương tục của đời sống, đã là một người nuôi dưỡng ta.

 * Rồi dần dần lưu tâm đến người khác, không phải là một người quá gần gũi, từng người một trong cùng cách quán chiếu, xác định và cảm nhận rằng trải qua sự tương tục của đời sống, họ đã gần gũi tương tự như thế.

 * Rồi mang đến tâm một người trung tính - ai đấy không từng giúp đỡ cũng không từng làm tai hại ta trong kiếp sống này. Lưu tâm rằng con người này tại những thời điểm nào đó trải qua sự tương tục của đời sống đã thân cận và đã nuôi dưỡng ta như người thân nhất.

 * Dần dần mở rộng nhận thức này đến những người trung tính khác - những kẻ được thấy trong hầm ngầm xe điện, đi ngang qua trên đường phố, hay được thấy trong một gian hàng.

 * Khi chúng ta đã trở nên thành thạo với việc xác định những người thân, và những người trung tính như đã từng là người thân nuôi dưỡng ta và đã cảm thấy nhận thức của ta thay đổi như thế nào, hãy quan tâm đến một kẻ thù bé nhỏ nhất - người nào đó đã từng gây tai hại cho ta hay người thân của ta một ít. Hãy bảo đảm để bắt đầu với một kẻ thù mà ta thù hận ít nhất, vì thế chúng ta có thể phát triển kinh nghiệm với việc tạm thời đặt qua một bên những cảm nhận tiêu cực để nhận ra rằng tại một thời điểm nào đó ta đã từng là những người thân cận nhất.

 * Khi chúng ta đã cảm thấy sự thay đổi nhận thức đối với kẻ thù ít nhất, hãy duy trì với thái độ mới của chúng ta trong một lúc, và rồi chậm rãi quan tâm đến kẻ thù ở mức độ kế tiếp.

Bước thứ hai: Đánh giá đúng sự ân cần

1- Quán tưởng bà mẹ của ta, hay người nuôi dưỡng chính, linh động trước mặt ta.

2- Hãy nghĩ:

Con người này đã là mẹ ta trong nhiều lần qua sự tương tục của sự sống; chỉ trong kiếp sống hiện tại này, bà đã đặt trên ta một thân thể đã hỗ trợ một đời sống thuận lợi mà trong ấy tôi có thể tiến bộ tâm linh. Bà đã duy trì ta trong bào thai của bà chín tháng, trong thời gian ấy bà không thể cư xử như bà muốn mà phải có một sự chú ý đặc biệt đến gánh nặng này mà bà mang trong thân thể bà, làm bà cảm thấy nặng nề và khó khăn chuyển động. Mặc dù những chuyển động của ta sẽ làm cho bà đau đớn, nhưng bà cảm thấy vui trong những việc như vậy, lại nghĩ đứa con của bà mạnh mẽ như thế nào hơn là trở nên sân giận và tập trung trong nỗi đau của bà. Cảm nhận thân thiết và yêu mến của bà là to lớn.

Trụ một lúc với tư tưởng này, cảm nhận sự tác động của nó.

3- Cảm kích sâu xa hơn bằng việc quan tâm những chi tiết:

Trong khi sinh sản, bà khổ sở vô cùng, và sau đó bà đã liên tục quan tâm với lợi ích của ta, tự hỏi tôi đang hoạt động thế nào, đánh giá đứa con được sinh ra từ chính thân thể bà hơn hẳn bất cứ thứ gì khác. Sau này, bà đã săn sóc ta trong một cách tốt đẹp nhất mà bà có thể.

Bà đã lau sạch phân của ta và lấy chất nhầy trong mũi ta. Bà đã cho ta sữa của chính bà và không cảm thấy bị xúc phạm khi ta cắn vú bà. Ngay cả khi bà chán nản bởi những thứ như vậy, cảm nhận thân thiết của bà cho ta là tột cùng trong tâm tư bà. Điều này không chỉ trong một ngày, một tuần, một tháng, mà từ năm này đến năm khác, trái lại đối với hầu hết mọi người chăm sóc trẻ con trong một giờ hay hai giờ là phiền toái.

Nếu chúng ta sử dụng một kiễu mẫu khác hơn là bà mẹ của ta, hãy nhớ lại trong chi tiết sự ân cần của người ấy dành cho ta.

4- Nhận ra chúng ta đã lệ thuộc như thế nào:

Nếu bà bỏ tôi ngay chỉ một hay hai tiếng đồng hồ, tôi đã có thể chết. Qua sự ân cần của bà trong việc nuôi dưỡng tôi với thức ăn và áo quần tốt nhất theo khả năng của bà, cuộc sống quý báu này với một thân thể vật lý đã làm cho tiến trình tâm linh có thể được duy trì.

Cảm kích sự ân cần mà ta đã nhận. Khi chúng ta quan tâm một cách cẩn thận lòng ân cần của bà trong những cách này, không có cách nào không cảm động.

5- Gia tăng phạm vi cảm kích của chúng ta đến những kiếp sống khác:

Bà đã ân cần không chỉ trong kiếp sống này mà thôi, nhưng cũng trong các kiếp sống khác như một con người hay một con thú, vì hầu hết thú vật quan tâm đến con cái của chúng trong những cách tương tự.

Hãy để sự tác động trong nhận thức mới này ngập tràn trong ấy. Đừng vội vã chuyển qua động tác tiếp theo giống như điều này chỉ như là một sự thực tập giả tạo.

6- Đã thấu hiểu sự ân cần của người nuôi dưỡng chính trong kiếp sống này, mở rộng sự thấu hiểu này dần dần đến những người thân khác. Khi họ là bà mẹ ta hay người thân nhất, họ bảo vệ ta với một lòng ân cần to lớn giống như người nuôi dưỡng chính đã làm trong kiếp sống này. Phản chiếu một cách chậm rãi và cẩn thận trong sự ân cần của họ, bắt đầu với người thân nhất kế tiếp và phản chiếu như trên.

7- Khi năng lực của sự phản chiếu này đã được cảm nhận, di chuyển đến người thân kế tiếp, thiền quán trên cùng thái độ, chậm rãi quan tâm tất cả những người thân của chúng ta, rồi đến những người trung tính, và cuối cùng là những kẻ thù oán.

Bước thứ ba: Thói Quen Ân Cần

1- Hãy nghĩ:

Nếu mẹ tôi (hay người thân nhất) trong kiếp sống này bị mù và tâm tư không ổn định, đang bước trên mõm đá nguy hiểm không ai hướng dẫn, và nếu tôi, người con duy nhất của bà, không chú ý và lãnh trách nhiệm giúp đỡ bà, thì thật là kinh khủng.

2- Mở rộng thí dụ:

Tất cả chúng sinh khắp trong hư không đã từng là mẹ tôi và đã từng bảo vệ tôi với lòng ân cần rộng lớn, họ không biết những gì trong thái độ của họ cần loại bỏ và những gì cần tiếp nhận nhằm để thúc đẩy cho những quan tâm lâu dài của họ. Không có sự hướng dẫn tâm linh, họ đang bước dọc theo một mỏm đá của những khổ đau khủng khiếp trong cõi luân hồi. Nếu biết điều này, tôi không quan tâm đến lợi ích của họ mà chỉ nghĩ đến sự giải thoát của riêng tôi, thì thật là kinh khủng.

Trụ trong nhận thức của chúng ta một lúc về hiểm họa của họ, cảm nhận sự tác động. Tự cho phép mình quan tâm về hoàn cảnh của mọi người. Nếu điều này dường như quá mơ hồ, hãy phản chiếu trên một người đặc thù nào đó trong hoàn cảnh ghê sợ này, và rồi mở rộng cảm nhận mạnh mẽ của chúng ta đến mọi người. Trau dồi những bước trước với sự quan tâm đến con người làm cho điều này có thể hiện thực.

3- Trong việc đáp ứng đến việc được người khác chăm sóc trong kiếp này cũng như những kiếp khác, phát triển một quyết tâm để hỗ trợ họ trong bất cứ cách nào thích đáng: "Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm cho những con người này - những người thân đã nuôi dưỡng tôi - bị hành hạ bởi khổ đau thế này." Tự quyết chí làm lợi ích cho họ.

Bước thứ tư: Từ Ái

Phần một

1- Đem đến tâm một người thân và phản chiếu trên vấn đề người này đau khổ từ tinh thần đến thân thể như thế nào, từ những niềm vui sai lầm tạm thời đối với những thứ có niềm hạnh phúc bản chất nội tại, và từ việc bị vướng trong một tiến trình ngoài sự kiểm soát của người ấy, giống như chúng ta khổ sở trong những cách này.

2- Mở rộng sự phản chiếu này đến nhiều người thân hơn, từng người một.

3- Áp dụng tuệ giác nội quán này đến vài người trung tính, từng người một.

4- Quan tâm đến người thù oán tối thiểu, đau khổ trong những cách này giống như chúng ta.

5- Chậm rãi mở rộng điều này đến càng nhiều người hơn, những ai đã từng làm tổn hại đến chúng ta hay người thân của ta.

Phần hai

1- Hãy chú ý rằng chúng ta trải nghiệm một cách tự nhiên cảm nhận của cái "tôi" như trong "tôi muốn điều này," hay "tôi không muốn điều này."

2- Hãy nhận ra rằng chúng ta tự nhiên muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Điều này là tự nhiênđúng đắn, không đòi hỏi bất cứ sự tranh cãi nào nữa.

3- Căn cứ trên khát vọng tự nhiên này, chúng ta có quyền để đạt đến hạnh phúc và để tiêu trừ khổ đau.

4- Giống như chúng ta có những cảm nhận này và quyền lợi này, vì thế người khác cũng có cùng cảm giác và cùng quyền lợi một cách bình đẳng.

5- Phản chiếu trên sự kiện rằng sự khác biệt giữa tự thân và người khác là ta chỉ là một người đơn lẻ, trái lại những chúng sinh khác là vô số.

6- Đề ra câu hỏi này: Mỗi người phải được sử dụng vì việc đạt đến hạnh phúc của tôi hay tôi phải nên giúp người khác đạt được hạnh phúc?

7- Hãy tự tưởng tượng, tĩnh lặng và hợp lý, nhìn đến một phía vào một phiên bản khác của chính tôi - nhưng vào vị kỷ, quá tự hào, không bao giờ nghĩ đến lợi ích của người khác, chỉ quan tâm với tự thân của mình, sẵn sàng làm hầu như bất cứ điều gì để thỏa mãn cho nó.

8- Về phía khác của chúng ta hãy tưởng tượng một số những người nghèo cùng không liên hệ đến ta, khốn khó và đau khổ.

9- Bây giờ chúng ta - như một người không thành kiến, nhạy cảmtrung tâm - quan tâm điều này: Cả hai phía muốn hạnh phúc và muốn loại trừ đớn đau; trong cách này, họ là bình đẳng, giống nhau. Thêm nữa, cả hai có quyền hoàn thành những mục tiêu này.

10- Nhưng hãy nghĩ:

Sự ích kỷ thúc đẩy con người bên một phía chỉ là một người duy nhất, trái lại những người khác là số lượng lớn hơn rất nhiều, ngay cả là vô số. Có phải con người vị kỷ đơn lẻ này là quan trọng hơn? Hay có phải nhóm người nghèo cùng, khốn khó, bất lực ấy là quan trọng hơn?

Chúng ta tham gia vào phía nào? Ta, như người không thành kiếntrung tâm, sẽ tự nhiên chiếu cố đám đông lớn hơn những người khốn khó; không có cách nào để tránh nhu cầu tràn ngập của số lượng lớn những con người, một cách đặc biệt trong sự tương phản đến đặc tính tự hào và ngu xuẩn. Nếu chúng ta có một trái tim nồng ấm, chúng ta sẽ tự nhiên bị cuốn hút vào phía những người khốn khó.

11- Hãy phản chiếu:

Nếu, tôi chỉ là một người, lợi dụng số đông, tôi đang hành động một cách tương phản với tính người của tôi.

Thực tế, để hy sinh một trăm đô la vì lợi ích của một đô la là rất ngu ngơ; dành một đô la vì lợi ích của một trăm đô la là thông minh.

12- Suy nghĩ cách này, hãy quyết định:

Tôi sẽ đặt sự nhấn mạnh của tôi lên số nhiều hơn là trên con người vị kỷ này.

Giống như mỗi bộ phận trên được quan tâm một cách bình đẳngthân thể của ta và do vậy được bảo vệ một cách bình đẳng khỏi đau đớn, vì thế tất cả chúng sinh phải được bảo vệ một cách bình đẳng khỏi khổ đau.

Phần ba

1- Bắt đầu với người thân nhất, hãy nghĩ:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

Thiền quán cách này trong một thời gian dài cho đến khi phát sinh một cảm giác yêu mến người thân nhất như bà mẹ thực hiện cho đứa con ngọt ngào yêu mến của bà. Mặc dù điều này không dễ dàng để làm với việc lưu tâm đến một người thân hữu tốt, nhưng hãy thong thả. Chú ý cảm giác của chúng ta, chúng sẽ là kiễu mẫu để mở rộng đến người khác.

2- Tiếp tục cùng sự thiền quán với sự quan tâm đến nhiều người thân hữu hơn cho đến khi nguyện ước cho sự hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc mạnh mẽ một cách đồng đẳng cho tất cả. Thực hiện điều này đến từng người một:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

Nếu cảm giác của chúng ta không mạnh mẽ như cho người thân nhất, làm mới cảm xúc như những bước phía trước, phản chiếu trên sự mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau của họ, họ đã từng là người thân nhất của ta trong phạm vi của cõi luân hồi, họ đã từng ân cần với ta, và họ xứng đáng để được đền đáp cho sự ân cần ấy.

3- Tưởng tượng một người trung tín trước mặt ta, hãy nghĩ:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

Hãy chắc chắn không để việc thiền quán chỉ là chữ nghĩa; vấn đềchúng ta thay đổi nhận thức căn cứ trên cảm giác cho người thân nhất.

4- Tiếp tục cùng đề mục thiền quán với sự liên hệ đến nhiều người trung tín hơn cho đến khi nguyện ước này cho hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc là mạnh mẽ một cách bình đẳng cho những người thân và người trung tín.

5- Hãy tưởng tượng người thù oán tối thiểu trước mặt ta, hãy quán chiếu:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

Trụ với sự thực tập này cho đến khi chúng ta thật sự cảm nhận nguyện ước chân thành cho hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc cho người này, người đã làm tổn hại ta hay người thân của ta. Duy trì điều này cho đến khi nó mạnh mẽ như đối với người thân và người trung tín.

6- Tiếp tục cùng sự thực tập việc quan tâm đến một kẻ thù oán khác, chẳng hạn như người nào đó đã làm ta chán nản tại sở làm hay nơi công cộng. Khi chúng ta đã thành công, chậm rãi quân tâm đến nhiều người thù oán hơn, dần dần mở rộng đến phạm vi cảm nhận của từ ái yêu thương.

Phần bốn

1- Bắt đầu với người thân nhất, hãy nghĩ:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

2- Mở rộng cùng nguyện ước đến nhiều người thân hữu hơn, đến một mức độ nơi mà yêu cầu cho hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúcbình đẳng cho tất cả những người ấy.

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

3- Tưởng tượng một người trung tínhtrước mặt ta, hãy suy nghĩ như sau:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

4- Tiếp tục cùng đề mục thiền quán với sự quan tâm đến nhiều người trung tính hơn cho đến khi đòi hỏi hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc là đồng đẳng một cách mạnh mẽ đối với người thân và người trung tính.

5- Hãy tưởng tượng đến người thù oán tối thiểu trước mặt ta, và quán chiếu:

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

Phản chiếu trên điều này cho đến khi chúng ta trải nghiệm một đòi hỏi chân thành cho hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc cho con người này, người đã từng làm tổn hại ta hay người thân của ta. Hãy làm như thế cho đến khi nó mạnh mẽ như đối với những người thân và người trung tính. Điều này cần thời gian.

6- Tiếp tục cùng sự thực tập với sự quan tâm đến một người thù oán khác, chẳng hạn như ai đó đã làm cho ta tức tối và bực bội.

Con người này muốn hạnh phúc nhưng bị đánh mất. Thật dễ thương như thế nào nếu người ấy có thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!

Chỉ khi cảm giác của chúng ta mạnh mẽ và chân thành, hãy quan tâm đến một kẻ thù oán khác, và rồi một người khác nữa, dần dần mở rộng chu vi từ ái của chúng ta.

Phần năm

1- Bắt đầu với người thân nhất, hãy nghĩ:

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm cho người ấy được thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc!

Hãy chú ý sức mạnh của cảm giác liên hệ của chúng ta

2- Mở rộng cùng khuynh hướng ấy đến nhiều người thân hữu hơn đến mức độ mà chí nguyện của chúng ta đến sự đạt đến hạnh phúc của họ và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc là mạnh bình đẳng cho tất cả những người ấy.

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm cho người ấy được thấm đẩm với hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc!

3- Tưởng tượng một người trung tính trước mặt chúng ta, hãy suy nghĩ một cách mạnh mẽ như chúng ta có thể:

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm cho người ấy được thấm đẩm với hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc!

4- Tiếp tục cùng sự thiền quán với sự quan tâm đến nhiều người trung tính hơn cho đến khi sự liên hệ trong việc đạt đến hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc mạnh mẽ đồng như đối với những người thân và người trung tính.

5- Tưởng tượng một người thù oán tối thiểu trước mặt ta, hãy quán chiếu:

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm cho người ấy được thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc!

Hãy sử dụng những sự phản chiếu đa dạng trên những bước phía trước cho đến khi ta trải nghiệm - cùng mạnh như đối với những người thân và người trung tính - cùng liên hệ sâu xa trong sự đạt đến hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân hạnh phúc bởi người này, người đã từng làm tổn hại cho ta và người thân của ta. Điều này cần thời gian.

6- Tiếp tục cùng sự thực tập với sự quan tâm đến một người thù oán khác, chẳng hạn như ai đó đã làm cho ta tức tối và bực bội.

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm cho người ấy được thấm đẩm với hạnh phúc và tất cả nguyên nhân của hạnh phúc!

Chỉ khi cảm giác của chúng ta mạnh mẽ và chân thành, hãy quan tâm đến một kẻ thù oán khác, và rồi một người khác nữa, dần dần mở rộng chu vi chí nguyện từ ái của chúng ta.

Bước thứ năm: Bi Mẫn

Phần một

1- Đem đến tâm một người thân, người có một nỗi đau đớn rõ ràng, và hãy nghĩ:

Giống như tôi, con người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị nỗi khổ như thế. Ước gì người này có thể thoát khỏi nỗi khổ và những nguyên nhân của khổ!

Hãy phân tích những cách mà người này đau khổ cho đến khi một cảm giác mạnh mẽ về việc kỳ diệu như thế nào nếu người này có thể thoát khỏi tất cả những loại khổ đau và rồi trụ với cảm giác ấy, hãy tiến hành sự phân tích ấy. Sau đó, khi cảm nhận giảm thiểu, hãy phân tích con người ấy khổ đau như thế nào, và khi ta cảm thấy lòng thương cảm mạnh mẽ và một nguyện ước cho sự giải thoát của người ấy, trụ với điều này mà không phân tích. Việc này được gọi là sự thay đổi giữa thiền phân tích (quán) và thiền định tĩnh (chỉ). Thực hành hai loại này qua lại vì thế cường độ của cảm giác duy trì mạnh mẽ. Cuối cùng, hai loại thiền tập này sẽ hỗ trợ và làm sâu sắc cho nhau mà chúng ta không cần phải luân chuyển qua lại nữa.

2- Quán tưởng trước ta một người thân, người mặc dù không đau khổ hiển nhiên, nhưng sẽ khổ đau trong tương lai vì vô số hành động phiền não ẩn tàng, những thứ mà tất cả chúng ta đã phạm phải từ vô thỉ kiếp. Hãy suy nghĩ:

Giống như tôi, con người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị nỗi khổ như thế. Ước gì người này có thể thoát khỏi nỗi khổ và những nguyên nhân của khổ!

 Thay đổi qua lại giữa thiền phân tích và thiền định tĩnh.

3- Chậm rãi mở rộng đề mục thiền quán này đến từng người một, đầu tiên với nhiều người thân hữu hơn, rồi thì với những người trung tính, và cuối cùng với những người thù oán, sau chót bao gồm tất cả chúng sinh trong khắp hư không.

Phần hai

1- Đem đến tâm một người thân, người có một nỗi đau đớn rõ ràng, và hãy nghĩ:

Giống như tôi, con người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị nỗi khổ như thế. Nguyện cho người này có thể thoát khỏi nỗi khổ và những nguyên nhân của khổ!

Thay đổi qua lại giữa thiền phân tích và thiền định tĩnh.

2- Quán tưởng trước ta một người thân, người mặc dù không đau khổ hiển nhiên, nhưng sẽ khổ đau trong tương lai vì vô số hành động phiền não ẩn tàng, những thứ mà tất cả chúng ta đã phạm phải từ vô thỉ kiếp. Hãy suy nghĩ:

Giống như tôi, con người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị nỗi khổ như thế. Nguyện cho người này có thể thoát khỏi nổi khổ và những nguyên nhân của khổ!

 Thay đổi qua lại giữa thiền phân tích và thiền định tĩnh.

3- Chậm rãi mở rộng đề mục thiền quán này đến từng người một, đầu tiên với nhiều người thân hữu hơn, rồi thì với những người trung tính, và cuối cùng với những người thù oán, sau chót bao gồm tất cả chúng sinh trong khắp hư không.

Phần ba

1- Đem đến tâm một người thân, người có một nỗi đau đớn rõ ràng, và hãy nghĩ:

Giống như tôi, con người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị nỗi khổ như thế. Tôi sẽ giúp người này được thoát khỏi nổi khổ và những nguyên nhân của khổ!

Thay đổi qua lại giữa thiền phân tích và thiền định tĩnh.

2- Quán tưởng trước ta một người thân, người mặc dù không đau khổ hiển nhiên, nhưng sẽ khổ đau trong tương lai vì vô số hành động phiền não ẩn tàng, những thứ mà tất cả chúng ta đã phạm phải từ vô thỉ kiếp. Hãy suy nghĩ:

Giống như tôi, con người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị nổi khổ như thế. Tôi sẽ hỗ trợ người này được thoát khỏi nỗi khổ và những nguyên nhân của khổ!

 Thay đổi qua lại giữa thiền phân tích và thiền định tĩnh.

3- Chậm rãi mở rộng đề mục thiền quán này đến từng người một, đầu tiên với nhiều người thân hữu hơn, rồi thì với những người trung tính, và cuối cùng với những người thù oán, sau chót bao gồm tất cả chúng sinh trong khắp hư không.

Bước thứ sáu: Chí Nguyện Hoàn Toàn Cố Gắng

1- Những cảm xúc sầu khổ không lưu trú trong bản chất của tâm, do thế, chúng có thể loại trừ được.

2- Vì những cảm xúc sầu khổ có thể tách rời khỏi tâm được, nên thực tiển cho tôi để hành động đạt đến giác ngộ và để giúp người khác cùng đạt được kết quả giống như tôi.

3- Ngay cả nếu tôi phải làm việc này một mình, tôi sẽ giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau và nguyên nhân của đau khổ, và tham dự cùng tất cả chúng sinh với hạnh phúcnguyên nhân của nó.

Bước thứ bảy: Tìm Cầu Sự Giác Ngộ Vị Tha

Đã ôn lại những đề mục thiền quán trước, chúng ta đã sẳn sàng cho bước cuối cùng, quyết định để đạt đến giác ngộ vì lợi ích giúp đở người khác.

1- Hãy phân tích trong tình trạng hiện tại chúng ta có khả năng để đem đến lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng việc giải thoát khỏi khổ đau và cùng hạnh phúc với họ hay không?

2- Hãy xem xét rằng cũng như việc ban cho thực phẩm, áo quần, và chỗ ở, thật cần thiết để giáo dục con người vì thế họ có thể chăm sóc chính đời sống của họ. Việc giảng dạy những gì nên tiếp nhậnloại bỏ là thiết yếu, và do thế chúng ta phải biết vị thế và những quan tâm của họ và có tri thức trọn vẹn về những thực hành ích lợi.

3- Hãy nhận ra rằng mặc dù chúng ta có thể giúp đở người khác trong một trình độ giới hạn, nhưng chúng ta chưa thể làm như thế trong một trình độ rộng rãi.

4- Hãy kết luận rằng vì vậy thật cần thiết để đạt đến thể trạng giác ngộ, mà trong ấy những chướng ngại kềm giữ chúng ta khỏi việc thực chứng, mọi thứ tri nhận (sở tri chướng) được loại trừ trọn vẹn và ta đạt được sự thân chứng hoàn toàn về bản chất của mọi ngườimọi vật.

5- Hãy quyết định rằng nhằm để đem đến lợi ích cho người khác trong một cách trọn vẹn, thì chúng ta sẽ phải đạt đến giác ngộ.

Khi những hành vi của chúng ta về thân thể, lời nói, và tâm ý ngày càng hướng trực tiếp đến lợi ích của người khác, thì chúng ta đã phát triển một ý nghĩa thậm thâm của từ áichí nguyện.

Nguyên tác: The seventh step: Seeking Altruistic Enlightenment.
Ẩn Tâm Lộ ngày 19-3-2012
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10198)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11256)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13594)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13746)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22224)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17791)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11742)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23296)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28598)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22780)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25725)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22315)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14004)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13443)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22491)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26400)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18493)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18970)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34526)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27394)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28434)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21399)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19223)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10623)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18582)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15668)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14031)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11796)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11635)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11347)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11905)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19951)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12401)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13277)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31997)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13445)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13339)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21875)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11099)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12910)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant