Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bạch Thư

13 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 9921)
Bạch Thư

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN HÓA ĐẠO

 

BẠCH THƯ

 

về Nghị Quyết 427 của Quốc Hội Hoa Kỳ (thông qua ngày 11/19/2003)

& Nghị Quyết của Quốc Hội Âu Châu (thông qua ngày 20.11.2003)

 

 

Theo công bố của Văn phòng Quốc Hội Hoa Kỳ, ngày 19 tháng 11, Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thuận 409, phản đối 13, Nghị Quyết 427 bảo trợ bởi Bà Loretta Sanchez, dân biểu Bang California, đồng bảo trợ 22 Dân biểu. Nội dung Nghị Quyết: “Bày rỏ cảm tình của Viện Dân biểu Hoa Kỳ đối với ban Chỉ đạo dũng cảm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và yêu cầu khẩn thiết cho tự do tôn giáo và các quyền con người liên hệ tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Tiếp theo đó, kể từ ngày 20 tháng 11, 2003, hầu hết các báo chí, đài phát thanh và truyền hình trong nước đã lên tiếng phản đối Hoa Kỳ chen vào công việc nội bộ của Việt Nam, cũng như khẳng định “đường lối trước sau như một của Đảng và Nhà nước luôn luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng.”

 Vì Nghị Quyết liên hệ đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do đó, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo thấy cần phải bày bỏ quan điểmlập trường của Giáo Hội để Tăng Ni, Phật tử, cùng đồng bào trong và ngoài nước có cơ sở tham chiếu, ngoài quan điểm đơn phương của các phương tiện truyền thông đại chúng Việt Nam dưới sự kiểm soát của Nhà nước Cộng sản. 

1. Trước hết, việc đệ trình Quốc Hội Hoa Kỳ hay thông qua Nghị Quyết bởi các Dân biểu Hoa Kỳ, đó là vấn đề nội bộ của Hoa Kỳ. Hội Đồng Lưỡng Viện, cũng như Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có thẩm quyền hay tư cách gì để can thiệp

Tuy nhiên, trong phát biểu của mình trước Quốc Hội, khẳng định lý do Nghị Quyết 427 được đệ trình, Bà Dân biểu Loretta Sanchez nói rõ: “Tôi đại diện cho cộng động người Việt lớn nhất ngoài Việt Nam trên thế giới, tại Quận Cam, bang California.” Chúng ta biết, sau 1975, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, một số lớn đồng bào miền Nam đã rời bỏ quê hương tị nạn tại nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, họ là công dân của những nước đã cưu mang họ, hưởng quyền lợi và có các bổn phận như các công dân thuộc các cộng đồng khác. Một trong các bổn phận căn bản là đóng thuế. Một trong các quyền lợi căn bảnsử dụng lá phiếu để quyết định Chính quyền. 

Dù phải sống lưu vong, nhưng đại bộ phận người Việt nước ngoài không thể quên quê hương, cội nguồn. Họ có bổn phận với đất nước đang cưu mang họ, đồng thời cũng còn mang trong tâm tư bổn phận thiêng liêng khác: đó là sự tồn vong, thăng trầm hay vinh nhục, của Tổ quốc, của giống nòi. Vì vậy, họ đã sử dụng lá phiếu của mình gây ảnh hưởng đối với Chính quyền đương quốc để binh vực quyền lợi cho thân nhân, đồng đạo cũng như đồng bào của mình trong nước, mà họ cho rằng đang bị khống chế hay áp bức. Đồng bào Việt đã gây ảnh hưởng như thế nào đối với Chính quyền sở tại, và Chính quyền ở đó đáp ứng như thế nào, đó là vấn đề nội bộ của nước đó. 

Đảng Cộng sản, kể từ khi mở cửa, sau khi thành trì bách chiến bách thắng của chủ nghĩa xã hội là Liên Xô sụp đổ, rõ ràng đã có thay đổi tư duy, đã không còn xem người Việt tị nạn nước ngoài là “bọn phản quốc chạy theo đế quốc tư bản,” mà bây giờ là một bộ phận không thể chia cắt của dân tộc, nghĩa là cũng được đối xử bình đẳng như đồng bào trong nước, cũng được thừa nhận là còn có nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc. Cho nên, tại Washington D.C có Tòa Đại sứ Việt Nam, tại California có Tòa Tổng Lãnh sự để nhắc nhở người Việt lưu vong một thời phản quốc đừng quên giống nòi và Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Đảng CS Việt Nam còn được phép, nghĩa là một cách hợp pháp, tổ chức những nhóm người Việt chấp nhận Chủ nghĩa Xã hội công khai vận động ủng hộca ngợi Đảng Cộng sản vinh quang, ngay trên đất Mỹ, được phép mở các kênh truyền hình giới thiệu đất nước Việt Nam giàu đẹp dưới tài lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người. Đảng và Nhà nước có đủ tất cả phương tiện mà nước Mỹ dành cho để chỉ cho đồng bào Việt kiều thấy đâu là vinh quang và đâu là sỉ nhục của Tổ quốc để tự do lựa chọnGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đủ tầm vóc để tuyên truyền như vậy. 

Ngay cả trong nước, GHPGVNTN không có bất cứ phương tiện truyền thông nào để xác minh việc làm của mình, mà theo đó đồng bào và Phật tử có quyền tự do phê phán. Thế nhưng, thậm chí khi bộ Ngoại giao công bố trước dư luận thế giới rằng Hòa thượng Huyền QuangHòa Thượng Quảng Độ, cùng các Thượng tọa, Đại đức khác bị bắt giữ tại đồn Công an Biên phòng Lương Sơn, vì “có mang giữ tài liệu bí mật quốc gia.” Điều đó không chỉ phạm luật Nhà nước, mà còn phạm giới Nhà tu. Dù bị lăng nhục như vậy, nhưng Giáo Hội không có bất cứ quyền hạn nào để tự xác minh trước sự vu khống và xúc phạm quá đáng đối với các bậc Cao tăngPhật tử kính trọng. Nếu Tăng Ni trẻ trong nước có tò mò tìm đọc các thông tin từ trên mạng để tìm hiểu sự thực, thì bị hăm dọa trục xuất khỏi chùa, khỏi tu viện. Nghĩa là trường hợp phạm giới nặng xét theo luật Nhà Chùa. Trong trường hợp như vậy đồng bào và Phật tử nước ngoài có toàn quyền tự do phê phán, và tự thấy cần phải làm gì để trân trọng phẩm giá của những người mà mình tôn kính. Và họ đã sử dụng lá phiếu để yêu cầu Chính quyền sở tại, hoặc tán thành hoặc phản đối hành vi Nhà nước Cộng sản. Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo không đủ tầm vóc để gây ảnh hưởng đó, bởi vì hai vị Đại lão Hòa thượng lãnh đạo tối cao của Giáo Hội bị cách ly, các Thượng tọa thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo phần lớn bị quản chế, hoặc bị hăm dọa, sách nhiễu.

 2. Thứ hai, các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước đã cho thấy rõ ý nghĩa: vấn đề Phật Giáo Việt Namvấn đề nội bộ của nước Việt Nam. Điều đó đúng. Nhưng cũng cần phải xác định, trong giới hạn nào thì được gọi là nội bộ. Có thể nói ngay rằng, những vấn đề của các hội đoàn nhân dân khác, như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp Thanh niên, hay Hội Những người cao tuổi, là những vấn đề nội bộ, hoàn toàn bị chi phổi bởi luật pháp Việt Nam trong thời gian nào đó và trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Vượt ngoài giới hạn thời giankhông gian ấy, những hội đoàn ấy không tồn tạiÝ nghĩa nội bộ lại càng chặt chẽ hơn nữa, khi các hội đoàn nhân dân này là một bộ phận tổ chức quần chúng của Đảng. Ngay cả bản thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, vượt qua giới hạn thời giankhông gian, trong chừng mực nhất định, cũng hoàn toàn không tồn tại

Đối với Phật Giáo, dù được tổ chức dưới hình thái nào, không hoàn toàn lệ thuộc giới hạn thời giankhông gian như vừa nói. Trải qua trên hai mươi lăm thế kỷ truyền bá, trên toàn bộ khu vực Á châu rộng lớn, và ngày nay trên toàn thế giới, là một thực thể xã hội trong cộng đồng nhân loạiPhật Giáo Việt Nam có bản sắc riêng, nhưng không thể nói hoàn toàn khác biệt với Phật Giáo tại các nước khác. Do ảnh hưởng hỗ tương về mọi mặt, kể cả mặt tổ chức, nên Phật Giáo Việt Nam không thể tự tách mình biệt lập với Phật Giáo như một tôn giáo toàn cầu. Có những sắc thái đặc thù của mỗi dân tộc, nhưng không thể phủ nhận tính phổ quát. Với nhận thức như vậy, vấn đề Phật Giáo, Việt Nam hay không phải Việt Nam, đều không hoàn toàn là công việc nội bộ của một nước. 

 Tất nhiên, khi truyền bá vào đất nước nào, Phật Giáo thích ứng với phong tục, tập quán của nước đó, và cũng phải sinh hoạt trong khuôn khổ luật pháp của nước đó. Nhưng không phải vì vậyPhật Giáo hoàn toàn lệ thuộc vào luật pháp của nước đó. Luật pháp của mỗi chế độ đều có chức năng bảo vệ sự tồn tại của chế độ đó. Ngay trong một chế độ, luật pháp cũng phải thay đổi theo thời đại, theo tổ chức quản lý xã hội của chế độ trong từng giai đoạn. Và trên hết, trong lịch sử chính trị, chưa có chế độ chính trị nào tồn tại vĩnh viễnĐiều chắc chắn, chế độ chính trị này có thể sụp đổ, được thay thế bằng chế độ chính trị khác, và do vậy cũng thay đổi luôn nội dung của luật pháp. Trong trường hợp như vậy, Phật Giáo vẫn tồn tại. Đó là sự thực lịch sử. Cho nên, không một chế độ nào có thể buộc chặt Phật Giáo vào sinh mệnh tồn tại của mình, để rồi khi nó sụp đổ, kéo theo cả sự sụp đổ của Phật Giáo. Một vài vị lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam do không thấy điều này, mà là điều hiển nhiên trong lời dạy của Phật: “cái gì có sinh thì có diệt” hoặc thấy, biết nhưng không thể làm khác đi được vì nhiều lý do, hoặc có vị cũng thấy, biết nhưng, để cho quyền lợi vật chất chi phối, sẵn sàng tuân theo ý chí của Đảng, bằng bất cứ giá nào phải đưa toàn bộ Phật Giáo Việt Nam vào làm một bộ phận chính trị quần chúng của Đảng để bảo vệ sự tồn tại lâu dài của Đảng. Như thế, thịnh suy của Đảng, thậm chí cả đến sự trong sạch hay thoái hóa của Đảng, cũng kéo theo số phận của Phật Giáo Việt Nam

 Bản thân của Phật Giáo cũng không phải là vĩnh viễnĐức Phật chưa bao giờ nói giáo pháp của Ngài tồn tại vĩnh viễn, mà những gì được nói thành lời đều là hữu vi do đó phải chịu tác động sinh diệt. Nhưng không phải vì thế mà Phật Giáo mất hay còn tùy thuộc vào số phận của bất cứ tổ chức hay đảng phái chính trị nào. 

Chính vì Phật Giáo, trong bản chất, không thể là một bộ phận của Đảng CS Việt Nam, nên vấn đề Phật Giáo không phải là vấn đề nội bộ của nước Việt Nam mà người làm chủ duy nhất hiện tại là Đảng Cộng sản Việt Nam

Có thể một số sư tăng hay Phật tử chấp nhận lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cho rằng chỉ có thể đem lại hạnh phúc cho xã hội loài người khi mà xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành công, trong đó không có giai cấp bóc lột và do đó tôn giáo cũng không còn chức năng lịch sử nữa, nghĩa là không còn tồn tại. Các sư tăngPhật tử ấy có quyền tự do, và chắc chắn Phật cũng không cấm, họp nhau lại lập thành một Giáo Hội rồi tự nguyện phó thác sinh mạng của Giáo Hội ấy trong tay các đảng viên cộng sản, những chiến sỹ xung kích xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh cho một xã hội không giai cấp và không tôn giáo. Mọi hình thái tổ chức và sinh hoạt của Giáo Hội ấy hoàn toàn tùy thuộc sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản. Từ trên cao, ai được chỉ định làm Pháp chủ, cho đến dưới hạ tầng, ai được chỉ định làm Chánh đại diện Phật Giáo quận huyện; đó hoàn toàn là công việc nội bộ của đảng Cộng sản. Vì đảng là người duy nhất lãnh đạo đất nước, cho nên công việc đảng là công việc của nước. 

 Ý nghĩa vấn đề Phật Giáo Việt Namvấn đề nội bộ của nước Việt Nam cần phải được nhận thức trong bối cảnh như vậy. Tất nhiên, đây là Phật Giáo của đảng cộng sản Việt Nam, một thứ Phật Giáo đang cố hóa thân để trở thành chủ nghĩa xã hội.

Những tăng ni Phật tử khác không chấp nhận điều đó, mặc dù không phủ nhận nhưng cũng không thừa nhận chủ nghĩa xã hộicứu cánh chân lý, có quyền tư duysinh hoạt theo những gì mình học và hiểu từ kinh Phật. Không thể bức ép họ tập họp làm thành một bộ phận của đảng cộng sản. Trong gần ba thập kỷ qua, giết tróc, tử hình, tù đày, lăng nhục, tất cả vẫn không làm sờn lòng, thoái chí, của những người quyết tâm đi thẳng theo con đường mà mình đã lựa chọn

3. Trong nhiều trường hợp, để tránh né vấn đềtính cách tế nhị trên phương diện luật pháp, Nhà nước Việt Nam, mà thường xuyên là bộ Ngoại giao khi phải trả lời dư luận quốc tế về hiện tình của Phật Giáo Việt Nam, trích dẫn lời phát biểu của các lãnh đạo của Giáo Hội của Mặt Trận, luôn luôn khẳng định, người đại diện duy nhất của Phật Giáo Việt Nam hiện tạiGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Vì được thừa nhậnđại diện hợp pháp duy nhất, nên khi tổ chức này nói: “không có đàn áp tôn giáo tại Việt Nam”, đảng CSVN muốn rằng cả thế giới, trong cũng như ngoài nước, phải hiểu rằng không có đàn áp

Tuy nhiên, Mặt Trận là tổ chức chính trị quần chúng của Đảng Cộng sản. Thế thì tuyên bố của một tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận, dù được gọi là Giáo Hội hay Hiệp hội, cũng vẫn là tuyên bố của Mặt Trận, nghĩa là, chính thức là của đảng CS. Mặt Trận là một tổ chức chính trị của đảng CSVN, thì phạm vi hoạt động cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ Việt Nam mà thôi. Theo hệ luận, trên nguyên tắc và chỉ trên nguyên tắc mà thôi, Giáo Hội nào là thành viên của Mặt Trận, thì phạm vi sinh hoạt của nó cũng không thể vượt ngoài tầm ảnh hưởng của Mặt Trận. Nói là trên nguyên tắc, vì trong thực tế, khi đảng CSVN muốn vươn tầm tay ra ngoài thế giới để tập hợp số người Việt lưu vong trước đây được xem là phản quốc nay được đảng “tha thứ” cho hướng về quê hương để xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa, khi ấy đảng cần điều động Giáo Hội của Mặt Trận làm đội quân thứ năm, bấy giờ đảng sẽ cho làm lại căn cước khác: Giáo Hội thuần túy chứ không phải là thành viên của Mặt Trận. 

Mặc dù được Nhà nước yểm trợ bằng tất cả mọi phương tiện cần thiết, nhưng không hiểu sao cho đến nay Giáo Hội ấy vẫn chưa hoàn toàn lột xác khỏi Mặt Trận để xứng đáng tầm vóc lãnh đạo đại bộ phận Phật tử Việt Nam hải ngoại, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà đảng giao phó là tập hợp quần chúng chung quanh đảng.

Ngày nay, cùng chung số phận với đại khối đồng bào, một bộ phận lớn Phật tử Việt Nam tìm đường vượt biên tị nạn CS, định cư trong các quốc gia phát triển hàng đầu của thế giới, khắp từ châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Châu Á là bản địa của Phật Giáo, và sự định cư của Phật tử tại các nước ở đó cũng không phải là ít. Trong bối cảnh đó, bờ cõi Việt Nam không rộng lớn thêm và Nhà nước Việt Nam mặc dù là Nhà nước thống nhất cả hai miền Nam Bắc nhưng phạm vi vẫn không thể vượt qua các đường ranh hải phận và đất liền; nhưng quả thực Phật Giáo Việt Nam đã vượt qua bờ cõi của Tổ quốc.

Vì quốc vận đảo điên nên phải lìa xa quê hương, nhưng người Việt lưu vong đã không quên cội nguồn, trong đó có Phật Giáo. Họ không thể nói: “Tôi là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, nhưng họ có đủ quyền tự do và được các công ước quốc tế bảo vệ để có thể nói: “Tôi là Phật tử Việt Nam.” Vì vậy Nhà nước Việt Nam không có quyền hạn gì với họ. Trái lại, các Thầy và các Sư cô Việt Nam, ở trong hay ngoài nước, theo Giáo Hội này hay theo Giáo Hội kia, đều có thể có ảnh hưởng nào đó trong đời sồng thường nhật của các Phật tử ấy, và họ tự do lựa chọn vị Thầy thích hợp cơ duyên cho đời sống tâm linh của mình. Khi họ nghĩ rằng các Thầy của mình đang bị áp chế, họ tự thấy có bổn phận chiếu cố. Đó là đạo nghĩa của con người, sống và hành động đúng theo lương tâmnhận thức. Tuy là thân phận lưu vong, nhưng là công dân của quốc gia dân chủ, có đủ quyền lợi và nghĩa vụ như các công dân khác, không phân biệt chủng tộc; họ sử dụng quyền công dân của mình, bày tỏ quan điểm của mình bằng lá phiếu. Kết án các Tăng Ni Phật tử trong nước không khứng chịu chấp nhận làm thành viên của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là “biến chất, thoái hóa”; kết án các Phật tử định cư nước ngoài nghĩ đến Thầy tổ của mình bằng lá phiếu dân chủ là bọn “phản động lưu vong”; tố cáo các Chính quyền làm theo điều mà cử tri muốn là “thế lực thù địch”; những vị có tư tưởng phê phán như vậy nên xét lại vấn đề, hãy chiêm nghiệm thực tế để đừng nhầm lẫn lý tưởng phụng sự Chánh pháp với mục tiêu phục vụ thế quyền. Không có cái gì dựa trên sự dối trá mà có thể tồn tại lâu dài

 4. Nghị Quyết 427 được thông qua tại Viện Dân biểu Hoa Kỳ ở Washington DC, ngày 19/11/2003 lúc 4:27pm (giờ địa phương) với 409 phiếu thuận trên 13 phiếu chống; và Nghị Quyết của Quốc Hội Âu Châu thông qua lúc 17 giờ chiều thứ năm, 20.11.2003, với đa số tuyệt đối của 626 Dân biểu; sự thông qua hai Nghị Quyết tại hai diễn đàn dân chủ có tầm ảnh hưởng quyết định hàng đầu của thế giới đã phản ảnh rất rõ hình ảnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong các cộng đồng quốc tế. 

 5. Trong hiện tình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước, trong khi hai vị Đại lão Hòa thượng lãnh đạo tối cao bị cách ly, và một số các Thượng tọa trong Tân Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo bị quản chế, nên chỉ có thể tổ chức cuộc hội kiến nhỏ không theo một nghị trình và địa điểm cố định, do đó không thể thảo luận chi tiết mọi khía cạnh của vấn đề. Nhưng cấp thiết, trong giới hạn cho phép, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo tự thấy có trách nhiệm, dưới hình thức phổ biến Bạch Thư, nêu quan điểmlập trường của Giáo Hội để Phật tử và đồng bào có cơ sở phán đoán các nguồn thông tin và bình luận của các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước liên quan đến hai Nghị Quyết đã đề cập trên.

 Phật lịch 2547,

Tháng 11. ngày 22, 2003

TUN Hòa Thượng Viện Trưởng

Thay mặt Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo

Đệ nhất Phó Viện trưởng

Thích Tuệ Sỹ

(Ấn Ký)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10190)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13584)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13728)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22199)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21855)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27363)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17771)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25244)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23269)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28569)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22759)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25689)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22287)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13985)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13427)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22461)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26363)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18463)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18956)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34497)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27369)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28400)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21364)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14887)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19195)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10615)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18563)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15660)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13175)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13416)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14020)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11787)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11625)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11885)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19939)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12391)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13939)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13270)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31954)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13428)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12749)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13327)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11888)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21856)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11088)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12896)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant