Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Bức Tranh Thay Đổi Thế Giới

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 7022)
06. Bức Tranh Thay Đổi Thế Giới
BỨC TRANH THAY ĐỔI THẾ GIỚI
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Bức Tranh Thay Đổi Thế Giới

Họ là đôi bạn thân kể từ thời còn học ở đại học Sorbonne, sau đó, cùng chọn chuyên ngành khảo cổ học. Jabindu, người Népal; Robinson, người Mỹ. Thời trẻ, cả hai đều say mê công việc khô khan và vất vả của mình. Dấu chân của đôi bạn đã dẵm khắp những di tích lịch sử ở hai bờ sông Nile, sông Hằng, Trung Á, Con-đường-tơ-lụa và cả Nam Mỹ...

Họ thuộc hai nền văn hóa khác nhau. Jabindu yêu những dãy núi băng giá sừng sững như muốn thi gan với trời đất; yêu đàn trâu Yark lang thang trên đồng cỏ; yêu thiên nhiên hoang sơ chưa có bàn tay con người uốn nắn, cải tạo; yêu con đường mòn nhỏ quanh co cùng những mái lá bình dị, xanh xanh khói bếp thanh bình; yêu những câu ca, điệu hát hồn nhiên, vô tư của các cô gái từ các nương rẫy và đồng quê yên ả... Robinson thì khác thế. Ông ta yêu những phòng nghiên cứu tối tân có đầy đủ dụng cụ khoa học hiện đại; yêu những siêu thị mát mẻ, bóng lộn, phong phú, đáp ứng đủ mọi nhu cầu thiết thân của đời sống; yêu những đại lộ thênh thang, những cao ốc chọc trời và những quy hoạch vườn cảnh sạch đẹp, phẳng phiu, ngay hàng thẳng lối; yêu những tiện nghi ăn, ở, mặc; những bảo hiểm và an toàn về y tế, ngân hàng, nhân thọ...

Chẳng rõ nhân duyên hoặc do suy nghĩ thế nào, đột nhiên, Jabindu từ bỏ gia đình, bằng hữu, từ bỏ sự nghiệp nửa chừng, từ bỏ phố thị và phòng nghiên cứu rồi mất tích nhiều năm trong những dãy núi hùng vĩ ở Himalaya. Còn Robinson thì vẫn đắm chìm, mê man giải mã các nền văn minh cổ xưa qua những dấu vết của các hiện vật và di chỉ lịch sử bất cứ ở đâu trên thế giới. Bây giờ niềm say mê ấy không còn nữa, ông đã mệt mỏi lắm rồi.

Hôm kia, thật là ngạc nhiên, Robinson nhận được thư của Jabindu do một du khách người Mỹ - vốn là sinh viên cũ của ông- trao lại, sau cuộc hành hương từ Népal Tây Tạng trở về. Thư của Jabindu có một đoạn nội dung như sau: “Từ biên giới Népal, theo đường bộ hiểm hóc, cheo leo lên Tây Tạng, chừng ba trăm ki-lô-mét - đi bằng xe trâu kéo - sẽ gặp một ngọn núi thơ mộng màu ngọc bích, có một cây đại thụ lá đỏ chừng hai ngàn tuổi đứng ngạo nghễ một mình... Từ đó, về hướng Tây chừng vài ba ki-lô-mét, gặp một con suối; bạn cứ đi mãi lên thượng nguồn... Hãy nhìn vào các vách đá liền lạc kéo dài, chỗ những mặt phẳng nhẵn bóng, nơi nào có những ký tự thuộc ngữ hệ Pàrkrit cổ; bạn luồn sâu vào một vài hang động: tôi đang ở đấy và đang thọ hưởng hạnh phúc từ “nền văn minh cổ xưa” của mình. Bạn hãy đến đây, sau mùa xuân, khi tuyết đã tan, tôi sẽ tặng bạn một bức tranh vô giá được hoạch đắc từ xứ sở lạc hậu này.”

Cầm lá thư ố vàng và nhàu nát trong tay, Robinson phân vân với nhiều nghi vấn. Jabindu đã là một tu sĩ rồi chăng? Và sao lại là một bức tranh? Ông bạn kỳ quặc này trao câu đố như thế là có ý nghĩa biểu tượng gì? Nó có liên hệ chút nào đến sự bất an và vô vàn câu hỏi bức xúc hiện nay của ta? Ôi, đã lâu lắm rồi, người bạn Châu Á ấy: Ông ta có đôi mắt sâu hun hút của những huyền sử, của những vấn nạn triết học, của những thắc mắc siêu hình cùng những cực đoan tâm linh khi nhìn về nền văn minh Tây phương tân tiến, mà ông ta coi là quá đỗi hời hợt và còn quá non trẻ. Ông nói nguyên văn là, một vị- thành- niên tri thức chưa có độ chín! Họ đã tranh cãi với nhau rất nhiều lần. Và lần nào cũng bế tắc, cùng đường. Ví như Jabindu nói:

- Nền văn minh của các bạn đã đi ngược đầu hơn hai nghìn năm kể từ thời Aristote. Ấy là con đường của lý trí khôn ngoan nhưng chẳng minh triết chút nào. Là lộ trình của điên đảo và hủy diệt...

- Không. Nền văn minh nào cũng là sự kế thừa của những thành tựu khoa học. Là chất xám đặc như keo, là sự thai nghén khổ hạnh của những tế bào não, là tiếp truyền trí tuệ đỉnh cao của loài người qua nhiều thiên niên kỷ. Chính nguyên nhân đói nghèo, lạc hậu... của Đông phương các bạn là do tự mãn, do quay lưng với khoa học và còn do coi thường vật chất nữa... Một kiểu tự mãn tâm linh cố chấp và kỳ quặc!

Jabindu cười to:

- Tự mãn là đúng- vì nền văn minh hiện đại của các bạn có nguyên động lực bên trong là dục vọngbản ngã chiếm hữu. Đấy là tâm thức sơ khai, gần với bản năng, biểu hiện một loại người chưa được tiến hóa về tâm linh cho lắm.

Robinson cũng cười. Lại nhạo:

- Đói nghèo, cơ cực, tối tăm và bệnh tật... là thực trạng của nền văn minh tinh thần của loại người tiến hóa cơ đấy.

Jabindu trả miếng:

- Chiến tranh, hận thù, khủng bố, bất an, động đất và bão lụt...; bất an giữa các giá trị đức lý, xung đột giữa các chủ thuyết và rối loạn giữa những ý thức hệ... Tất cả những hiện trạng đó đưa đến bất hạnh, thống khổđiêu tàn... Đấy chính là thành quả do nền văn minh vật chất ưu việt mà các bạn hiến tặng cho loài nguời!

Robinson cười nhạo:

- Vì là ưu việt nên chúng tôiđời sống cao sang, tiện nghi vật chất phong phú và choáng lộn. Còn các bạn... thì được núi rừng, được thảo nguyên hoang sơ, được các thôn ấp, nhà cửa tối tăm với gián với chuột với muỗi mòng...; đi đâu cũng thấy phân và rác, những vũng nước tù đọng...; đến nỗi không có cả một công trình vệ sinh tối thiểu... Đấy không phải là sống, là đời sống- mà chỉ là cách thức để tồn tại- của những bộ lạc tiền sử thời còn săn bắt hái lượm...

- Đúng, đúng... Jabindu gật đầu lia lịa - Nói chung, Đông phương là như thế, nhưng đâu phải là tất cả, bạn đừng vơ đũa cả nắm! Vì tri túc với cái ăn, cái mặc, cái ở... nên họ mới xuất sinh được các bậc hiền triết, có sinh hoạt tâm linh phong phú, có đời sống chan chứa nhân văn, thiên nhiên và tình người; có nội tâm khiết đạm, thanh bình; không có những cuộc cạnh tranh khốc liệt trên mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội; không có bóp óc, nặn trán, tính toan chạy theo lợi nhuận, năng suất, bạc tiền hoặc những mục đích trục vật hư dối ở bên ngoài. Hạnh phúc của họ là ở bên trong, Robinson!

- Bên trong! Làm gì có cái gọi là hạnh phúc bên trong nếu không do các điều kiện tối ưu ở bên ngoài quyết định? Ảo tưởng đấy, Jabindu!

- Nó tự có. Nó có thật, Robinson! Bạn không thể hiểu nổi đâu!

Robinson vuốt vuốt mũi, châm chọc:

- Khi nào bí là bạn tung hỏa mù siêu hình rồi chạy trốn, giỏi lắm!

- Bạn chưa bước vào ngưỡng cửa lãnh địa của sinh hoạt tâm linh thì nói gì cũng như đối thoại với người điếc. Bạn gọi nó là siêu hình hay là gì gì thì tùy thích. Còn tôi thấy nó rất thực tế. Nó là cái thực nhất, Robinson!

Cuộc tranh luận, đấu khẩu nào cũng đưa đến nhị nguyên, hai đàng cố thủ hai biên: Bên này và bên kia; bên trong và bên ngoài; vật chấttinh thần... Người phát triển chiêu thức biến hóa. Người huân công nội lực tiềm ẩn. Không bao giờ ai chịu thua ai. Không bao giờ họ chịu ngồi chung một chiếu mạn đàm. Và rồi họ châm chọc nhau, đả kích nhau rất gay cấn, chua chát nhưng không kém phần thú vị, vui vẻ. Tuy nhiên, Robinson vẫn luôn cho rằng, Tây phương ưu việt là nhờ phát triển khoa học, nhờ thông tuệ, nhờ không ngừng tìm kiếmsáng tạo. Đông phương đói nghèo và lạc hậu... cần phải mượn chiếc đũa thần khoa học của Tây phương. Cần phải được khai hóa. Jabindu thì bảo là chúng tôi không cần sự ưu ái của các bạn: Sự khai hóa ngược đời, ngu ngốc ấy! Trầm tư và thiền định mới là hạnh phúc đích thực của chúng tôi.

Mặc dầu quan điểm đôi bên không dung hợp được nhưng tình bạn giữa họ với nhau thì thật vô cùng thâm thiết. Cứ hễ xa nhau là thấy nhớ, như âm với dương. Có một thời hai người còn liên lạc khắng khít với nhau. Trong lá thư cuối, cách đây hơn mười năm, Robinson cảm nhận là dường như bạn mình đã có lối thoát, đã có con đường nào đó rất sáng tỏ. Còn ông, càng đi sâu nghiên cứu các nền văn minh cổ xưa chừng nào thì những lý luận ngoan cố, phản khoa học của Jabindu càng trở nên thuyết phục. Qua những kết quả tìm thấy trên những đống tro tàn đổ nát của lịch sử, dù bia mộ bí mật, chữ viết tượng hình hay các ký hiệu, biểu tượng thần, thánh, người, vật phức tạp... Robinson đều đi đến một hệ luận chung quyết, một kết quả giống nhau: Sau cái khuôn võ hào nhoáng của văn minh, thời nào cũng thế, thường tồn tại những thảm trạng đen tối, những phản ứng phụ nguy hiểm! Cũng như sự thực của nền văn minh đương đại: Con người ngày nay, ngày càng trở nên máy móc và tha hóa. Mọi giá trị nhân sinh, mọi nền tảng đức lý đều điên đảo và rệu rã. Trái tim và tâm hồn của công dân thời đại hạ nguyên tử đã trở nên khô cứng vì họ phát huy hết công suất tối đa cho cái cỗ máy lý tính. Những tệ trạng xã hội tung rải mầm độc cho tuổi trẻ và các thế hệ tương lai. Chiến tranh và nạn khủng bố đe dọa mạng sống của cư dân trái đất. Người ta đã hủy phá thiên nhiên một cách tàn bạo, không thương tiếc; môi trường của hành tinh xanh bị nhiễm ô, bị vấy bẩn thối tha do hóa chất và rác thải công nghiệp. Khói, bụi, vi trùng, siêu vi, khí độc... đầy đặc trong không gian, máu huyết, óc não, trong hơi thở và cả trong trái tim người! Tất cả đấy không được gọi là sự điêu tàn thê lương của noạ tính, của hố thẳm, của hủy diệt là gì? Nền văn minh hiện nay- niềm tự hào của ông- kết quả cuối cùng sẽ bi thảm như thế, như nó đã từng diễn ra trong lịch sử. Robinson chợt nhớ bạn một cách da diết. Jabindu đã có lý. Đúng là ông bạn của mình thuộc loại người tiến hóa bậc cao. Bậc thầy siêu việt. Hay là những tiên tri thời đại?

 

Lá thư với những dòng chữ vẽ một địa chỉ mơ hồ, nhưng Robinson có bổn phận phải tìm cho ra. Và ông đã tìm ra. Những vách đá và những hang động huyền bí, hoang sơ dường như chưa có vết chân người. Nắng, bụi, mồ hôi, dốc cao, vực sâu... như trò chơi oái ăm, gian lao muốn thử thách ý chínghị lực của Robinson từ ông bạn già Đông phương tinh nghịch. Từ từ, chậm rãi, Robinson luồn sâu mãi vào các hang động. Đây rồi! Một hình hài gầy khô như que củi đang tọa thiền trong ánh sáng nhờ nhờ, nhưng Robinson vẫn nhận ra vóc dáng quen thuộc của Jabindu. Ông đứng lặng rất lâu. Lẽ nào đây là cứu cánh của kiếp sinh tồn? Lẽ nào đây là hình ảnh của người đã tìm ra niềm bình an vĩnh cửu? Trong không gian tịch mịch, lắng đọng... thời gian như lùi lại cả hàng ngàn năm, tri giác ông chợt như khói như sương, mỏng manh và bất thực. Những ký tự không phải Pàli, không phải Sanskrit đầy đặc nơi những vách đá cho Robinson hiểu rằng: Jabindu đã thâm ngộ một điều gì đó rất phi thường ở đây. Có lẽ là một phép luyện tâm của một nền văn minh cổ xưa nào còn lưu lại chăng?

- Rồi bạn sẽ biết chúng nói gì! Jabindu đứng lên từ trong bóng tối, phá tan sự yên tĩnh- Chúng là một loại cổ ngữ pha trộn phức hợp, chưa hoàn chỉnh, sau này thành ngôn ngữ Pàrkrit. Tôi đã đọc được chúng. Hóa ra là kinh Phật. Nếu muốn nghiên cứu, bạn sẽ có những tấm dập âm bản tương đối rõ ràng. Này Robinson! Bạn khỏe chứ?

Cả hai ôm lấy nhau, siết chặt. Jabindu dìu bạn mình đến một hóc hang động có ánh sáng, đốt thêm một ngọn đèn từ mỡ trâu Yark. Trong không gian yên tĩnh, cổ sơ... Jabindu đãi “người bạn văn minh” của mình nước mưa và trái cây rừng. Bây giờ, Robinson mới nhìn thấy rõ Jabindu hơn: Khuôn mặt queo quắp, rắn đanh, gầy ốm, xương xẩu, tóc râu lún phún muối tiêu...; quàng trên người một tấm vải màu cứt ngựa quệt thổ hoàng. Đặc biệt là đôi mắt cực sáng, biểu hiện một sức sống nội tâm mãnh liệt. Trước mặt Robinson hình ảnh một đạo sĩ sống cách đây vài nghìn năm. .. Như cổ tích. Như huyền sử...

- Mừng cho bạn đã được bình an! Robinson đọc được điều đó và cảm thán mở lời.

Jabindu cười nhẹ:

- Còn hơn thế nữa, Robinson! Tôi đã không còn bất cứ một câu hỏi nào. Tất cả trí và tâm đều đã trở nên vắng lặng.

- Tuyệt - Robinson nắm chặt bàn tay xương xẩu và nhìn sâu vào mắt người đối diện - Hồi xưa, bạn có lý, Jabindu!

Vị sa-môn gật đầu chẳng khiêm tốn tí nào, rồi lại lắc đầu:

- Bây giờ, không phải là cái lý, dù hữu lý - mà là cái thực - Robinson!

Robinson tin bạn mình nói thật, nhưng ông vẫn chưa biết đó là cái gì, bèn nhích tới, có vẻ chăm chú, rồi hỏi:

- Nó là cái gì? Có phải là hiểu và biết không, Jabindu?

- Không phải thế. Phạm trù của cái hiểu và biết rất giới hạn. Nó luôn luôn có điều kiện và có đối tượng... Cái hiểu và biết ấy là quá khứ, là thời giansinh tử, Robinson!

- Tôi có thể chưa hiểu. Vậy nó có phải là trạng thái không?

- Lại càng không, Robinson! Trạng thái nào, dù an lạc tuyệt đỉnh, chúng cũng chảy trôi, không có một điểm tựa thực hữu, chỉ là sự hội tụ mong manh của các năng lượng!

Robinson nhăn mày:

- Vậy nó là cái gì?

Jabindu trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Dù tôi nói nó là cái gì - thì cả bạn, cả tôi cũng sẽ mãi đóng đinh chân nhau, không đi ra khỏi cái phạm trù của hiểu và biết. Chúng ta vẫn bị nó quy địnhgiới hạn từ khi bắt đầu có nhận thức. Lý do tôi biên thư mời bạn đến đây cũng vì lẽ đó...

Nói xong, Jabindu bước tới vách đá, thò tay vào khoảng hở bên trong, lấy ra một bức tranh rất cổ, lồng trong một khung gỗ đen sì được bọc kỹ lưỡng bằng một tấm da dê rất mịn... Bụi và màn nhện bám đầy. Vừa lau chùi khung hình, Jabindu vừa nói chuyện:

- Thầy tôi là đệ tử chân truyền của đức Maha± Kassapa, người đã duy trì mạng sống hơn hai ngàn năm nay chỉ với một mục đích duy nhấtbảo vệ Tam Tạng trên vách đá, đồng thời chờ đợi một người đệ tửcăn cơ để trao truyền sở học cùng kinh nghiệm tâm linh tu chứng. Tôi là người được chọn. Bạn tin hay không tin điều tôi vừa nói cũng chẳng quan hệ gì! Kinh nghiệm tâm linh tu chứng nhận được từ thầy, tôi đã trao truyền cho một nhóm đệ tử; hiện giờ họ đều đang ẩn cư, chờ lúc nào thuận duyên sẽ đi hóa độ nhiều phương. Còn lưu hậu và hoằng truyền kinh văn thì tôi sẽ trông cậy ở nơi bạn vậy...

- Tôi hiểu rồi. Tất là giải mã động kinh văn này rồi dịch nó ra tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, in ấn rồi lưu truyền. Việc ấy tuy khó nhưng không phải không làm được. Bằng hữu của chúng ta có rất nhiều học giả ưu việt và nhiệt tình. Họ làm việc rất khoa học và rất nghiêm túc...

- Tôi cũng tin là như vậy.

- Thế còn bức tranh này?

Jabindu dựng bức tranh ở chỗ có nhiều ánh sáng nhất. Tranh gần như là tượng trưng, ấn tượng hay siêu thực? Trông thì rất cổ xưa mà cũng rất hiện đại. Khó biết chất liệu giấy. Mực màu thì dường như được mài ra từ các loại ngọc; còn nội dung thì chúng chìm ẩn, lấp lánh đa sắc với nhiều hình tượng xen lẫn rất khó cảm nhận, rất khó thông hội...

- Nó là cái gì? Robinson không đừng được, cất tiếng hỏi.

Jabindu nở nụ cười như hoa sen hé nhụy:

- Nếu là gì thì chúng ta lại loay hoay nơi cái chỗ hiểu và biết mất thôi!

Robinson cười xòa:

- Vậy tôi sẽ không hỏi nữa, chỉ nghe thôi!

Jabindu chậm rãi nói:

- Tác giả bức tranh này là ai thì thầy tôi không nói, nhưng người đã cất giữ như một bảo vật. Nghe đâu là của một nhà sư nghệ sĩ vô danh, trong cơn thiền định xuất thần, ông đã làm nên tuyệt tác ấy. Mọi ý nghĩa của nó nằm ẩn sâu hút bên sau mọi đường nét, mọi sắc màu biểu tượng. Bức tranh phải được quay mặt về hướng Đông. Chính ánh sáng và dương khí của mặt trời chiếu dọi và tác động vào thì màu sắc của các loại ngọc mới ửng lên, mới hiển hiện đúng sắc độ cần thiết, đúng đích thực cái điều mà bức tranh muốn nói... Còn nếu không, bức tranh chỉ còn là một bức tranh đẹp, cổ xưa và quý báu, vậy thôi... Bạn có thể bán nó với giá mấy triệu mỹ kim!

Jabindu dí dỏm. Cả hai cùng cười xòa. Sau đó, Jabindu cốt giữ một khoảng lặng để cho Robinson săm soi nhìn ngắm bức tranh; và cũng để cho ông ta tha hồ cảm nhận, tha hồ tưởng tượng...

Thời gian trôi qua... trôi qua... Robinson phát biểu:

- Thật lạ lùng. Khi tôi nghĩ nó là một bức tranh phong cảnh thì nó hiện ra đúng là một bức tranh phong cảnh. Một phong cảnh kỳ tuyệt, dường như là không có thật ở trên đời: Một cảnh thần tiên nào đó, mà, các nàng Apsara và hoa và lụa với những vũ điệu dập dờn, uyển chuyển, nhẹ nhàng trong khúc hát nghê thường vô cùng thanh khiết. Nó thanh khiết... đến từng hạt bụi, hạt sương... Khi tôi nghĩ nó là một biểu tượng tôn giáo thì tôi thấy cả hằng sa đức PhậtThánh chúng giữa những vầng mây ngũ sắc, trên những bảo tọa hoa sen... tất cả đều tịch lặng, thanh trong và vô nhiễm...

- Đúng vậy! Jabindu tiếp lời- Còn nữa, còn nhiều nữa... Cứ hễ chúng ta nghĩ là gì thì nó sẽ hiện ra như thế, đúng như tâm và tưởng của chúng ta vẽ ra. Hằng trăm, hằng ngàn cảnh... nhưng vẫn chưa hết, chưa đủ... Tuy nhiên, tất cả chúng chỉ là ảo ảnh, cái do ta tưởng tượng mà nên. Còn cái thực thì bức tranh phải được quay mặt về hướng Đông. Rồi, cứ thế mà nhìn ngắm, chẳng rõ thời gian bao lâu, một lúc nào đó, trong một sự tình cờ thế nào đó, cái thực nó sẽ hiện ra, đúng như mà nó là...

Robinson trầm tư giây lâu, thắc mắc:

- Tôi tin lời bạn. Nhưng cái thực ấy để mà làm gì? Nó ích dụng gì cho tôi, Jabindu?

- Lúc ấy bạn sẽ không còn một câu hỏi nào nữa. Bạn sẽ khai mở được mọi bế tắc, sẽ vượt qua phạm trù của hiểu và biết.

Robinson tự nghĩ: “Nền văn minh tin học hiện nay dựa trên những ký hiệu, mã số tạo nên muôn trùng sinh hoạt ảo, sẽ rơi vào hố thẳm, đấy là điều chắc thật. Sự tìm kiếm của thời đại hạ nguyên tử cũng đang hoang mang, cùng đường. Hạt hay sóng cũng chỉ là năng lượng. Thực thể tối hậu là gì thì khoa học cũng đang còn ngơ ngác. Điểm tựa cuối cùng của nhân loại vẫn đang còn là ẩn số. Nhưng bây giờ, ở đây, trong không gian cổ sơ này, sự bình an của bạn ta rõ là một sự thực không cần bàn luận, lý giải...”

Jabindu nắm chặt hai vai bạn, lay mạnh:

- Hãy mang bức tranh này về phương Tây, Robinson! Chỉ với một yêu cầu duy nhất: Bức tranh phải được quay mặt về hướng Đông. Đấy là sở nguyện của tôi như để đáp tạ tình bạn cố tri, và đồng thời, tri ân bạn trong công trình kinh điển gian khổ sau này.

 Ông thở một hơi nhè nhẹ rồi tiếp:

- Sau khi trao bức tranh, tôi chẳng còn việc gì để làm trên cuộc đời này nữa. Mong rằng, bạn sẽ được bình an. Đây có thể là lời vĩnh biệt, Robinson!

 

Lưu luyến chưa vội từ giã, nấn ná suốt mấy ngày, Robinson mới bùi ngùi cất bước ra đi. Khi máy bay lên độ cao, nhìn xuống những dãy núi trùng điệp, hoang sơ, mây, tuyết và khói sương dật dờ... Robinson vẫn chưa tin là vào thế kỷ hai mươi mốt này, lại còn có những bậc minh triết ở ẩn, khước từ dường như tuyệt đối ánh sáng văn minh, sống an nhiêntự tại với nhu cầu thanh bạch của một cánh chim rừng, dường như không cần một đòi hỏi vật chất nào! Cái gọi là đời sống tâm linh thuần túy không phải là hoang đường và phi thực!

Khi đã ở trong ngôi biệt thự cao sang với những tiện nghi hiện đại nhất ở Los Angeles, Robinson còn mang cảm giác như mình đã từ mấy nghìn năm lịch sử trở về. Việc đầu tiên là ông mở vội bức tranh huyền bí, kiểm tra lại xem việc vừa xẩy ra là thực hay là mộng. Bức tranh sờ mó được, là có thực. Nhưng câu nói cuối cùng của Jabindu thì đúng lời trăn trối có cánh và có lửa. Chúng hàm tàng nội lực tu chứng cùng nhiều ẩn ý. Việc phiên dịch toàn bộ Tam Tạng là một công trình dài hơi, nhưng chưa phải là cấp bách. Tìm một vị trí thích hợp để tôn trí bức tranh là việc quan trọng, ông không thể phụ lòng Jabindu được. Lại nữa, nó là sự bình an của chính ông.

Mang bức tranh bước vào thư phòng, Robinson nhìn hướng mặt trời rồi ngắm nghía. Một lúc, ông bước tới, bước lui, nhìn từng cửa sổ, nhìn các phòng ốc kế cạnh, nhìn ra vườn... Lát sau, ông lấy la bàn ra xem, đo đạc, tính toán... Robinson chợt suy nghĩ rất lâu. Ông như đăm chiêu, bất động...

Suốt hai ngày, Robinson không muốn ăn, không muốn ngủ; ông như ở trong trạng thái không phải tỉnh, không phải mê. Ngày thứ ba, Robinson vùng dậy, lấy điện thoại đăng ký máy bay trở lại Népal...

 

Dường như Jabindu biết trước việc xảy ra, nên lần này ông đón bạn từ dưới chân núi với nụ cười rất lạ. Jabindu dìu bạn từng bước một, thân thiện, ân cần... Nhưng Robinson thì rất nóng vội:

- Không thể được, Jabindu!

- Bạn nói cái gì không thể?

- Bức tranh mà bạn cho, không thể treo ở đâu được cả!

- Tại sao?

Đợi cho đến khi trở lại hang động, Robinson mới nói rõ lý do:

- Này nhé, Jabindu! Đầu tiên, bước vào thư phòng, tôi nhắm hướng Đông để tôn trí bức tranh. Muốn chính xác phải cần đến la bàn. Nếu đúng là hướng Đông thì thư phòng phải quay chệch một góc gần ba mươi độ. Cũng được, không sao. Nhưng nếu thiết kế lại phòng sách thì phòng ngủ, phòng bếp, phòng nghiên cứu, phòng khách, phòng ăn... hoàn toàn phải thay đổi, phải vẽ lại hết. Giả dụ mất nửa triệu đô-la để làm việc ấy thì cũng xứng đáng. Thấy được cái thực với giá ấy thì quá rẻ. Tuy nhiên, khi nhìn ra vườn thì tôi mới thật sự bối rối, hoảng kinh. Nếu toàn bộ hướng nhà thay đổi thì khu vườn cũng phải thay đổi. Thay đổi khu vườn của mình, hy sinh được, nhưng ảnh hưởng các căn nhà và những khu vuờn bên cạnh thì phải làm sao! Có thể thương lượng với họ được không? Rất khó. Nhưng khó hơn là con đường trước mặt - lối chính vào thành pho - sẽ biến thành kỳ quặc. Ông thị trưởng, hội đồng kiến trúc sư, các nhà quy hoạch cũng như dân chúng, không ai cho phép một người bất bình thường hoặc một gã tâm thần làm việc điên rồ đó...

Nghĩ lấy hơi một chút, Robinson tiếp tục:

- Càng nghĩ, tôi càng bàng hoàng, Jabindu! Nếu tôi treo được bức tranh hướng mặt về phía Đông thì tôi phải thay đổi cả thành phố Los Angeles...

Jabindu có vẻ ngạc nhiên:

- Kinh khiếp đến thế cơ à?

- Chưa đâu, Jabindu! Nếu thay đổi thành phố Los Angeles thì các xa lộ, đại lộ, đường cao tốc Bắc, Nam, Đông, Tây đều phải thay đổi. Theo đó, cả nước Mỹ phải thay đổi...

Jabindu gật đầu, nhíu mày:

- Đúng là như thế thật!

- Chưa đâu, Jabindu! Khi bản đồ nước Mỹ mà được vẽ lại thì các sân bay, những trạm, những ga, những bến tàu sẽ tìm chỗ khác thích hợp hơn. Và thế là sự rối loạn sẽ như đĩa xúp hùm-bà-lằng. Nước Mỹ sẽ có chiến tranh. Thế giới chiến tranh: Chiến tranh kinh tế, chiến tranh thương trường, chiến tranh dầu hỏa, chiến tranh xây dựng, chiến tranh thủ đoạn, man trálọc lừa... Nói tóm gọn một câu: muốn treo được đúng hướng bức tranh quỷ quái này thì phải thay đổi cả thế giới...

Robinson thở dài, đưa cả hai tay lên trời như đầu hàng, bỏ cuộc. Sau đó, trân trọng trả lại bức tranh cho Jabindu:

- Món quà trân quý này, tôi không có duyên phần, xin hoàn về cố chủ!

Jabindu hững hờ đặt tay lên bức tranh, nhìn thẳng vào mắt Robinson, cất giọng trang nghiêm:

- Cũng tương tự thế là cái thấy, này Robinson! Cái thấy làm thay đổi thế giới, thay đổi toàn bộ thế giới...

- Cái thấy ấy... làm sao?

- Là thay đổi cách nhìn. vượt qua phạm trù của hiểu và biết. Nó chính là tuệ giác. Cái thấy của tuệ giác...

Robinson tròn xoe mắt, ngơ ngác với những dấu hỏi tận cuối chân trời. Giọng nói của Jabindu từ miền chân không của ý tưởng, vẫn an nhiên, trầm ấm rót nhẹ vào tai:

- Chính tư, tưởng và thức là thủ phạm làm cho cái nhìn của chúng ta bị sai lệch, đảo điên. Cái hiểu và biết của chúng ta về thế giới, nhân sinh... cũng từ đó mà phát sanh sai lầm, cục bộ... Triết học, các hệ thống tư tưởng, các ý thức hệ... từ xưa đến nay đã đưa ra những phán quyết chủ quan, tự thị... đã đẩy nhân loại đến chỗ tranh chấp, tương tàn và hủy diệt nhau... Nền văn minh cà-rốt, bột mì, thông tin, điện tử, các giá trị ảo... không giải quyết nổi cái quằn quại, đau khổ, bấn loạn của tinh thần con người. Phải xoáy cái nhìn vào bên trong, Robinson! Phải thay đổi cái nhìn ấy: Một cái nhìn trạm nhiên, trong suốt, vô vi, mới mẻ... không qua phân tích, lý giải, không bị nô lệ bởi tư, tưởng và thức, này Robinson!

Robinson có vẻ trầm tư, nhưng vẫn nghe rõ mồn một lời của Jabindu vang vọng giữa động sâu, như ở ngoài không- thời- gian:

- Toàn bộ thế giới đang ở nơi tâm trí bạn đều là sản phẩm của tri kiến quá khứ. Đã cũ kỹ. Đã ám khói. Đã úa vàng. Đã chết rồi. Bạn không dám thay đổi thế giới, thì vĩnh viễn, không bao giờ có được cái thấy tự tại, giác ngộ, tinh khôi ấy đâu, Robinson!

 (Truyện ngắn hay năm 2006 

Tạp chí Văn nghệ Thứ bảy

Phụ bản Tết Đinh Hợi 2007)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13588)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13737)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22214)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21871)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27378)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12329)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23275)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22770)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25709)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22293)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13990)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13434)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26370)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18474)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28423)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21375)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14897)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19214)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18574)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11792)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11632)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11890)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12395)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13436)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13332)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11903)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21866)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11094)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant