Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 6919)
Phần 3

Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh


Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch

truyen_co_phat_giao_cuu_vat_phong_sinh


Phần 3



21. Bầy Chim Chôn Cất Vị Ân Nhân

Có một người sống cô độc trong một túp lều tranh. Ông tên là Tôn Lương, vốn là người trung hậu, bản tính nhân từ, cuộc sống thanh bần đạm bạc. Ông đi lầm thuê, thấy người ta bắt nhốt một bầy chim trong lồng, động mối từ tâm, có bao nhiêu tiền công, ông dốc ra mua tất cả, rồi đem thả chúng vào rừng hoang. Trải qua bao năm, không hiểu ông thả được bao nhiêu chim mà vẫn nghèo kiết xác. Sau đó, tuổi tác ông càng ngày càng cao, ông phải đi xin ăn kiếm sống qua ngày. Vào một buổi sớm mai năm ông bảy mươi tuổi, ông cảm thấy thân thể bải hoải, bèn nằm thẳng cẳng trên giường, rồi vĩnh viễn từ giã cõi đời.
Tôn Lương vốn không có thân nhân bằng hữu, gia thế lại bần hàn, không có được một chiếc quan tài để chôn cất tử tế, nên đành nằm không trên giường, trong một tình trạng hết sức thê lương.
Vào một buổi sáng sớm sau hai ngày ông qua đời, bỗng nhiên có một bầy chim từ đâu bay đến bàng bạc trên bầu trời, bay thẳng vào trong lều tranh của Tôn Lương. Những người ở gần đó thấy thế lấy làm lạ kéo nhau tới trước nhà ông để xem. Họ ngỡ rằng bầy chim bay đến đó để xơi thịt Tôn Lương; nào ngờ chúng tha đất đến chôn cất vị ân nhân đã cứu mạng chúng.
Bầy chim này đông hàng vạn con, bay đi bay lại như con thoi, nên chẳng bao lâu chúng đã tha đất lấp đầy ngôi nhà tranh để chôn cất Tôn Lương.
Đến khi ấy, mọi người trong làng mới biết ông ta suốt đời từng làm việc thiện, nên được bầy chim chôn cất một cách lạ lùng như thế. Từ đó trở đi dâng làng càng hiểu rõ công đức của sự phóng sinhvô cùng cao quý.

22. Nhờ Phóng Sinh Mà Khỏi Chết Chìm

Vào đời nhà Tấn có một người tên là Mao Bảo. Ông là một nho sinh, tính tình nhân từ, tâm trí thông tuệ. Lúc chưa làm quan, một hôm đang đi trên đường, ông bỗng thấy một ngư phủ tay xách một con rùa, hăm hở ra chợ bán. Mao Bảo lập tức xuất tiền ra mua con rùa ấy, rồi đem thả xuống sông. Về sau, ông làm đến chức tướng quân, sự nghiệp rực rỡ một thời.
một lần cầm quân ra trận, ông cùng quân địch giao chiến. Nhưng quân ông yếu thế, bị thua to, quân lính bỏ chạy tán loạn. Quân địch hung hãn đuổi theo rất gấp. Mao Bảo chạy lạc đến một dòng sông, nhưng nơi đây không có thuyền, cũng không có cầu để đi qua. Ông nhìn lại phía sau thì thấy bụi bay mịt trời, truy binh đang đuổi đến. Mao Bảo long dạ như lửa đốt, hoang mang vô cùng, ngửa mặt lên trời than thở: "Trời hại ta rồi!".
Vừa dứt tiếng than, ông định rút gươm tự sát để đền nợ nước. Nào hay, mặt nước bỗng nổi sóng cuồn cuộn, rồi một vật lạ nổi lên, theo sóng bơi bào phía ông. Khi nó đến bên bờ sông thì vừa lúc quân địch cũng đã đến gần. Trong tình huống nguy cấp như lửa cháy này, Mao Bảo thầm nghĩ: "Thà chôn thân vào bụng cá chứ quyết không để cho quân địch bắt sống mà phải chịu nhục. "Nghĩ thế rồi, ông vươn mình nhảy xuống nước.
Khi đang ngoi ngóp trong dòng nứơc, ông bỗng cảm thấy dưới chân có vật gì đỡ ông lên, rồi nương theo làn sóng bơi gấp vào bờ bên kia. Ông lấy làm quái lạ, hốt hoảng ngoái đầu nhìn lại phía sau, thì thấy quân địch đã đến sát bờ sông. Chúng bắn theo như mưa, nhưng tất cả tên đều rơi xuống nước, Mao Bảo chẳng hề hấn gì. Thoắt chốc đã đến bờ bên kia, Mao Bảo tung chân nhảy lên bờ, cón con rùa đen hướng về ông, gật đầu chào rồi lặng lẽ bơi đi. Bấy giờ Mao Bảo mới nhớ lại chuyện xảy ra cách đây khoảng mười năm. Lúc ấy, ông có mua một con rùa đen, đem thả xuống sông. Có lẽthế mà giờ đây nó đến cứu ông. Nghĩ đến lòng tri ân của loài vật, tâm hồn ông dâng lên một niềm cảm động vô vàn.

23. Nhờ Cứu Loài Ong Mà Thoát Khỏi Tử Hình

Một hôm, ông chủ quán bán rượu trông thấy một con ong mật sa vào trong hũ rượu, long ông cảm thấy thương xót, liền dung một que tre vớt nó ra ngoài. Chẳngmấy chốc, mình ong khô nuớc cánh ong cứng lại, nó liền vươn cánh kêu vo ve mấy tiếng, rồi tung cánh bay đi.
Từ ấy trở đi, hễ thấy con ong mật nào rơi vào hũ rượu, ông đều cứu chúng thoát chết.
Cách vài năm sau, bỗng nhiên một hôm, lính từ đâu xông đến quán ông, chúng chẳng hỏi mô tê ất giáp gì hết, mà bắt ông còng hai tay lại, rồi dẫn lên cửa quan. Bấy giờ ông mới biết mình bị kẻ gian vu cáo, nhưng không có cách nào biện bạch đựơc nỗi oan tình. Đến khi vị quan thẩm quán cầm bút định kết ông vào tội tử hình thì đột nhiên nghe vang cả tiếng ong từ xa vang lại, càng lúc càng rõ dần. Chẳng mấy chốc, cả bầy ong vương cánh bay đến, chúng lần lượt đâm đầu vào ngòi bút son của viên thẩm phán. Quan đuổi mấy chúng cũng chẳng chịu đi, mà càng lúc lại càng bay đến nhiều hơn, khiến cho long quan băn khoăn, lấy làm quái lạ. Thấy tình hình như thế, viên thẩm phán đoán rằng tên tiểu bảo kia nhất định bị kẻ gian phi vu cáo. Thế rồi ông goại kẻ tố cáo kia đến thẩm tra lại, thì phát giác ra lời tố cáo của y trước sau đều mâu thuẫn. Do đó, ông tra hỏi lại thật cặn kẽ thì hay tên tiểu bảo kia với tên gian phi ấy chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau hết, mà y chỉ dựng chuyện để vu oan giá họa cho người ta.
Bấy giờ viên phán quan mới khẳng định người tiểu bảo kia quả thực là vô tội. Bầy ong lúc này cũng rã đám vút đi.
Viên phán quan liền hỏi kỹ tên tiểu bảo do nguyên nhân gì mà có chuyện lạ như thế, thì tên tiểu bảo cứ tình thực trình bày lại việc nhân đức mà trước kia mình đã làm. Bấy giờ viên phán quan mới rõ anh ta là người long thiện, bình sinh ưa tạo phúc và vui sống theo đạo lý của thánh hiền, nên quan nói: "Thật khó nghĩ rằng do anh cứu bầy ong thoát khỏi chết đuối mà nay chúng bay đến đểu cứu mạng cho anh. Vậy từ nay trở đi anh nên làm nhiều việc phúc thiện hơn nữa, thì sau này sẽ hưởng được những quả phúc tốt lành".
Người chủ quán về sau trở nên phát đạt, tài sản hàng trăm vạn, suốt đời chăm làm việc thiện, tuổi thọ rất cao, không bệnh mà chết một cách an lành.

24. Hồn Lên Cõi Trời

Ngày xưa, tại một vùng kia, có một viên tiểu lại họ Trương vốn là người phụ tá cho quan Huyện. Ông Trương tính tình ôn hòa nhưng cương trực, ưa làm việc thiện, thường dùng số tiền lương của mình đến lò sát sinh, mua những con vật sắp bị giết đem về để nuôi chúng.
Tuy là một viên quan tiểu lại, nhưng gia cảnh của ông cũng khá giả, mỗi ngày trở nên giàu có, con cháu đông đúc vui vầy. Do đó, việc làm phúc thiện của ông không bị gián đoạn mà càng ngày càng thêm gia tăng. Về sau, đến tuổi về hưu, ông trở về sống với gia đình, mỗi khi thấy con vật nào chết, ông liền đem chôn cất tử tế. Những người hàng xóm thấy thế, cho ông là một tên gàn điên, nhưng ông vẫn thản nhiên, mặc cho thiên hạ đàm tiếu, chẳng cần quan tâm đến. Trái lại, ông thường dạy con cháu không được sát sinh, và khuyên cả nhà đều ăn chay lạt.
ông đã từng cứu sống sinh vật rất nhiều nên đến tuổi cổ lai hy (bảy mươi tuổi) mà sức lực của ông vẫn khang kiện như người còn trẻ. Về cuối đời, lúc ông răm tuổi, một hôm ông cho gọi người nhà tập họp lại, với gương mặt tươi sáng, tinh thần quắc thước, ông nói với mọi người: "Cả đời ta từng phóng sinh rất nhiều, chứa đức sâu dày, nên nay Thiên đế cho người đến rước. Nhà họ Trương ta từ nay trở đi ngày càng thịnh vượng, con cháu đều đựơc vui hưỡng tuổi trời. Sau khi ta qua đời, các ngươi phải vâng lời di chúc, không được hại vật sát sinh".
Nói xong thì từ từ nhắm mắt. Mọi người nghe trên không trung tiếng nhạc kêu vang, âm thanh rất êm tai. Tiếng nhạc ấy mỗi lúc mỗi gần, con cháu trong nhà đều ngước mắt lên xem. Thế rồi, chẳng mấy chốc, tiếng nhạc lại xa dần. Mọi người nhìn lại ông, thì thấy ông đã vĩnh viễn an giấc ngàn thu nhưng dung nhan vẫn như người còn sống. Tin ông chết loan đến triều đình, nhà vua bèn gia phong ông tước hiệu Viên ngoại lang. Về sau, con cháu ông nhiều đời đều dốc long làm theo lời di huấn.

25. Người Giữ Lưới Săn Thả Thỏ Chạy

Đức Lục Tổ Huệ Năng là một bậc cao Tăng đức độ. Sau khi nhận được tâm ấn tại Hoàng Mai, Ngài liền đi ở ẩn. Nhân quan sát thấy cảnh sinh hoạt của người đời, Ngài nhận thấy phân nửa nhân loạigây tội sát sinh, nên phải chuốc lấy quả báo đau khổ muôn trùng, khó có ngày nào tránh khỏi. Ngài thường khuyên họ không nên sát sinh để tránh đau khổ, nhưng họ lại mê muội, chấp trước không hề thức tỉnh.
Nhân thấy các thợ săn sát hại quá nhiều sinh linh, trong long cảm thấy bất nhẫn, nên Lục Tổ cải trang thành kẻ thế tục, ẩn mình trong đám thợ săn. Do thế, bọn họ sai Ngài giữ lưới. Đó là cơ hội tốt nhất để thực hiện hoài bão của Ngài. Mỗi lần bọn thợ săn bắt được ác loài chương, thỏ, trông vẻ mặt thê lương của chúng, lòng Ngài quặn thắt, ảo não xúc động, âm thầm rơi lệ.
Cứ mỗi lần chương hay thỏ sa vào lưới, mà có thể cứu được, thì Ngài đều tìm cách thả chúng chạy thoát. Sống chung với bọn thợ săn như thế suốt mười năm trường, Ngài mới cảm hóa được bọn họ, khiến họ thay đổi nghề nghiệp. Thế rồi không lâu sau đó, Ngài trở về chùa Bảo Lâm, chủ trì đạo tràng Tào Khê, rộng độ quần sinh. Danh sĩ khắp nơi nghe đến đức vọng của Ngài, đều lũ lượt kéo về Tào Khê lễ bái, thờ Ngài lầm thầy, quy y thọ giáo. Về sau, ngọn tuệ đăng kế thừa Lục Tổ được chia làm năm cánh, ân đức đượm khắp mười phương, khiến cho hàng tăm triệu người hướng về tôn thờ và ngưỡng mộ.

26. Đem Chôn Thịt Biếu

Cách đây rất lâu, tại huyện Tuyên thành có một người tên Dữu Bản Thục, xưa nay vốn không ăn thịt bò.thế, khi có người nào mang thịt bò đến biếu thì ông đem cho tôi tớ dùng, nghĩ rằng làm như thế là vô tội. Bỗng một hôm, Dữu Bản Thục lâm bệnh, thầy thuốc bèn dùng não bò hòa với thuốc cho ông uống. Thế rồi, đêm ấy ông nằm mộng, thấy một vị thần mặc áo gấm đến trước ông quát nạt:
- "Ngươi là kẻ ăn thịt bò, nếu không thì tại sao toàn thân ngươi xông lên mùi hôi hám như vậy?"
- "Đâu có! Lâu nay tôi chưa từng ăn thịt bò bao giờ!", Dữu Bản Thục quay đầu lại đáp.
Vị thần mặc áo gấm bèn bảo kẻ tùy tùng kiểm tra lại số ghi chép, rồi nói: "Tuy ngươi không ăn thịt bò, nhưngbệnh mà phá giới, lại còn đem thịt bò cho bọn tôi tớ ăn, lẽ ra ta phahi giảm bớt tuổi thọ của ngươi, nhưng niệm tình ngươi đã có long hối cải, vả lại, cũng nhằm để khuyến khích mọi người không nên ăn thịt bò,thế, ta tạm thời tha cho ngươi khỏi chết".
"Giả sử có người khác lại đem thịt bò cho tôi nữa thì sẽ xử trí thế nào?". Dữu Bản Thục hỏi lại.
Vị thần mỉm cười đáp: "Đem chôn đi là được thôi! Chỉ sợ tâm ngươi không kiên trì, chứ lo gì không thể làm được việc thiện tốt hơn trước!"
Dữu Bản Thục chợt tỉnh giấc, hóa ra vừa rồi chỉ là một giấc mộng, bèn chép lại câu chuyện trong giấc mộng ấy để khuyến cáo mọi người cùng làm việc thiện.

27. Công Đức Chép Kinh Giải Được Oan Gia

Vào đời Đường có một người họ Phan tên Quả, ở tại kinh đô. Lúc còn trẻ, tính tình ông nhân từ, không hiểm ác; hơn nữa, nhờ biết được chút ít võ nghệ, nên xin được chút ít võ nghệ, nên xin được một châu Tiểu lại ở tại huyện đường. Do đó, Quả thường giao du với một số thanh niên đồng lứa.
Một ngày kia, trông thấy một con dê mà người chăn dê bỏ sót lại tại bãi tha ma, nó đang ăn cỏ và lá cây, phan Quả bèn họp cùng bè bạn bắt dê đem về nhà. Lúc đi dọc đường, Dê cất tiếng kêu be be, Quả hoảng quá, sợ chủ nó nghe được, bèn cắt đứt lưỡi dê, và tự cho mình có cơ trí hơn người, xử lý công việc một cách độc đáo.
Sau khi dắt dê về tới nhà, Quả cùng bè bạn đem ra làm thịt, bày tiệc rượu nhậu nhẹt vui vẻ với nhau. Nào hay đâu, một năm sau, Phan Quả đột nhiên phát hiện lưỡi mình dần dần teo nhỏ, nói năng ngọng nghịu. Quả biết mình mắc bệnh kỳ quặc, mang phải ác tật, liền xin từ chức Tiểu lại.
Thế nhưng, quan Huyện lệnh Phú Bình là Trịnh Dư Khánh nghi y có điều gì man trá, bèn gọi đến khám nghiệm, thì quả thực, lưỡi y gần như biến mất, chỉ còn nhỏ xíu như hạt đậu. Quan huyện liền hỏi nguyên nhân, Phan Quả dùng bút kể lại đầu đuôi câu chuyện, biết vậy, viên quan huyện lệnh liền bảo thuộc hạ của mình làm phúc cho dê, và sai Quả chép kinh Pháp Hoa, Quả phát tâm kính tín, giữ gìn trai giới,con dê tội nghiệp kia mà tu phước. Sau một năm, lưỡi của y dần dần bình phục lại như trước.
Phan Quả thấy thế cao hứng muôn phần, vội vã đến quan huyện trình bày tất cả tự sự, và quan huyện cũng cựu kỳ thú vị, liền thăng chức cho Quả. Viên quan huyện này vốn là một vị quan thanh liêm, gần xa đều ca ngợi, nên măn Trinh Quán thứ chín, ông được thăng đến Giám sát Ngự sử. Câu chuyện này do ông kể lại, xem như một giai thoại để cho mọi người cùng chiêm nghiệm.

28. Ba Kẻ Câm Ngọng

Vào đời Đường, tại một vùng kia có một nông phu, bản tính rất độc địa. Một hôm vào giờ ngọ, y ra đồng thăm ruộng, bỗng nhiên thấy một con trâu của hàng xóm, vừa ăn luá, vừa giẫm đạp tơi bời đám ruộng của y, nổi giận xung thiên, y mắng: "Ta vất vả lắm mới làm được đám lúa tươi tốt như thế này, mà mi lại thản nhiên giẫm đạp lên, lại còn ăn phá không thương tiếc. Hừm! Mi tưởng mi được sống yên ổn mà không phải chịu sự trừng phát hay sao?"
Mắng xong, cười khẩy vài tiếng rồi gằn giọng: "Ta không giết mi tất nhiên mi lại ăn lúa của ta nữa, vậy ta phải cắt lưỡi của mi vứt đi, thou xem mi còn dám ăn lúa của ta nữa thôi!"
Con trâu biết mình có lỗi, nên đứng cúi đầu chẳng dám ho he gì hết; tên nông phu liền nắm chặt đầu trâu, rút ra một con dao bén, cắt đứt lưỡi trâu. Bấy giời con trâu lặng lẽ chịu đau, không kêu một tiếng nào cả.
Về sau, người nông phu ấy lấy vợ, sinh được ba đứa con, nhưng các đứa trẻ sau nửa năm biết nói, đột nhiên câm lặng.
Người nông phu thống khổ vô cùng, chẳng hiểu nguyên nhânsao, bèn đi tìm khắp danh y để chửa trị cho con, nhưng các thầy thuốc đều bó tay, không thể chữa được. Bỗng nhiên, nhớ lại cách đây khoảng mười năm, y đã cắt đứt lưỡi trâu, phải chăngquả báo ấy mà con y phải chịu tai họa ngày nay? Thế mới biết, lưới trời lống lộng, thiện ác phân minh, người nông phu chịu khổ đã đành, còn các đứa bé có lẽ đã gây một nghiệp duyên nào đó nên mới bị khổ lây.

29. Con Ba Ba Chữa Lành Bệnh Hiểm

Bỗng nhiên nghe dưới nhà bếp có tiếng kêu ầm ĩ: "Bắt nó lại, thả vào trong nồi!", Huỳnh Đức Hoàn vội đi tìm xem việc gì đã xảy ra mà gây nên sự huyên náo như thế. Ông liền bước xuống nhà bếp, thì thấy một con ba ba đang bò lồm cồm trên mặt đất, trông có vẻ rất đáng thương. Ông liền hỏi bọn đầu bếpsao vừa rồi chúng kêu la oai oái như thế thì một trong những tên đầu bếp đáp: "Nhânbà chủ nhà hầm con ba ba, nào hay nó nổi trên mặt nước, bò ngược nơi cái rổ đậy trên miệng nồi, khiến phần lưng bị phỏng nặng, chỉ còn hai chân và cái đầu là cựa quậy được, nên nó làm rơi cái rổ xuống đất mà bò đi. Chúng tôi thấy thế lấy làm lạ nên mới kêu la làm kinh động đến ông chủ".
Huỳnh Đức Hoàn lập tức sai người đem nó thả ngay xuống nước. Thế rồi, từ đó trở đi ông không ăn thịt ba ba nữa, và bắt đầu ăn chay một cách kiên trì. Khoảng một năm sau, Huỳnh Đức Hoàn mắc một chứng bệnh nhiệt, bệnh tình khá trầm trọng. Đến lúc sắp nguy kịch, người nhà bèn đưa ông đến ở trong một ngôi nhà bên dòng sông để dưỡng bệnh.
Một đêm kia, ông bỗng thấy một vật gì nằng nặng đang bò chầm chậm trên mình, làm cho thân thể mát mẻ dễ chịu, tinh thần sảng khoái vô cùng. Đến sáng sớm, trong người ông hơi có khí lạnh, nơi ngực lâng lâng thư sướng, nhìn kỹ thì nơi lồng ngực có những vết bùn, ngay lúc ấy, dưới mặt đất một con ba ba đang ngoái đầu nhìn lại ba lần, rồi từ từ bò đi. Ngày hôm sau, bệnh của Huỳnh Đức Hoàn bình phục đến chín phần.
Nếu như khi ấy không có chuyện lạ xảy ra, thì e rằng giờ đây ông đã ra người thiên cổ.vậy, từ đó trở đi, ông cấm người nhà không đựơc sát sinh. Về sau, ông thọ đến tám mươi tuổi, không bệnh mà chết một cách an lành.

30. Gà Mổ Mắt Cọp

Tại đất Cù Châu có một viên Lý trưởng của một làng kia, ngày thường cư xử với mọi người rất hòa ái, thân thiện, nên được dân chúng trong làng hết lòng kính mến, ca ngợi.
Một ngày kia, ông đến nhà một nông dân họ Hầu để thúc giục tiến thuế. Ông nói: "Hầu huynh, xin anh nạp cho khoảng tiền thuế năm ngoái, để tôi đem nạp quan trên".
Hầu lão Nhị áy náy, cung kính nói: "Phương Tam Gia, há anh không biegt rằng mùa thu hoạch năm nay, gia đình tôi bị mất mùa khá nặng, quả tình không đủ tiền để nạp ngay được, xin anh hoãn cho mươi bữa, nửa tháng, đặng tôi đem bán một ít củi khô, thì may ra mới có tiền mà nạp". Viện Lý trưởng cúi đầu thở nhẹ, đưa mắt trông ra ngoài cửa sổ viề phía ven rừng, thì bỗng thấy chập chờn hình bóng một cô gái áo vàng từ xa hướng đến chào mình. Trong lòng lấy làm kì lạ, lại nghe tiếng kêu của con gà mái, ông chợt hiểu rằng cô gái áo vàng kia có lẽ là hóa thân của con gà mái nọ. Do đó, ông căn dặn Hầu lão nhị đừng giết con gà mái ấy.
Năm sau, viên Lý trưởng đến nhà đó thu thuế. Bấy giờ, gà mẹ lại dẫn đàn gà con ra nghênh đón ông ở ven bờ rào. Thu thuế xong, ông từ biệt ra về, khi qua khỏi một con suối nhỏ, đến một dãy núi gần đó, đột nhiên một con cọp dữ từ đâu phóng đến. Phương Tam Tùng kinh hoàng, chân cẳng luống cuống, than mình co quắp, chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết. Ngay giây phút nguy kịch ấy, gà mẹ bèn xua đàn gà con xông đến trước mãnh hổ. Gà mẹ mổ vào mắt cọp, làm cho cọp già đau đớn, ôm lấy vết thương, bỏ chạy thụt mạng.
Giật mình tỉnh dậy, hóa ra vừa rồi chỉ là một giấc mộng. Phương Tam Tùng vô cùng cảm kích, liền xuất tiền ra mua gà mẹ và bầy gà con đem về nhà để nuôi chúng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13588)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13738)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22215)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21873)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27382)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17777)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12329)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23281)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25710)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22296)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13992)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13434)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22476)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26377)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18482)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18964)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34510)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27379)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28424)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21381)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14899)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19217)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11891)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12398)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13437)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13333)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11903)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21867)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11096)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant