Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 06: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Bắc

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10193)
Chương 06: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Bắc

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG VI: TRUYỀN BÁ TỊNH ĐỘ GIÁO Ở PHƯƠNG BẮC

Tiết 1: Tạo tượngtín ngưỡng Di-đà thời đại Bắc Ngụy

Phương nam nhờ ảnh hưởng của ngài Huệ ViễnLô sơn, lại có các ngài Bảo Vân, Khương-lương-da-xá v.v…nối tiếp nhau dịch kinh điển Tịnh Độ, tín ngưỡng Tịnh độ Di-đà, dần dần được truyền bá khắp nơi. Nhưng phương bắc thì chủ yếu thiếu người khởi xướng, lại thêm chiến tranh liên miên, đặc biệt vào thời Bắc Ngụy niên hiệu Thái Bình Chân Quân thứ 7 (446TL), vua Thái Vũ Đế ra lệnh đập phá tượng Phật, thiêu đốt kinh điển, phá hủy chùa tháp, Phật giáo một thời hầu như bị xóa sạch. Vì thế, sự hoằng dương Tịnh Độ giáo cũng nhân đó mà biệt tích. Cho đến khi Văn Thành Đế lên ngôi, Phật giáo mới được phục hưng. Hưng Quang nguyên niên (454TL), ngài Đàm Diệu dâng tấu xin tạo năm hang điện ở phía bắc hang Hàn Sơn, Vũ Châu (Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây), phía tây bắc Hằng An, kinh đô nước Ngụy, nhờ đó nên ở các vùng lân cận cũng tạo dựng hơn mười thạch thất, tất cả đều có an trí tượng Phật, đây được gọi là động đá Đại Đồng. Niên hiệu Thái Hòa thứ 18 (494TL), Hiếu Văn Đế dời đô về Lạc Dương và cũng bắt đầu cho khai tạc tượng Phật ở Long Môn (huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam), rất nhiều tượng Phật có khám thờ được liên tục khắc tạo. Trong số tượng được khắc, tượng Di-lặc nhiều nhất, kế đó là tượng Thích-ca và tượng Quán Âm, còn tượng Di-đà thì ít hơn và thời gian cũng hơi trễ. Căn cứ vào Điêu tố thiên trong Trung Quốc mỹ thuật sử của sử gia Đại Thôn Tây Nhai có ghi: “Tượng Phật A-di-đà ở Long Môn, Lạc Dương, do nữ thanh tín họ Khương tạc vào Thần Qui nguyên niên (518TL), thời Bắc Ngụy. Lại có liệt kê những bài minh của các tượng được tạc vào niên hiệu Thần Qui thứ 2 (519TL), niên hiệu Chính Quang thứ 3 (522TL), thứ tư (523TL), niên hiệu Hiếu Xương thứ 2 (526TL), thứ 3 (527TL), niên hiệu Vĩnh Hy thứ 2 (533TL), niên hiệu Vũ Định thứ 3 (545TL), thời Đông Ngụy v.v…

Vì đương thời, mọi người đối với quan niệm về tịnh độvị lai còn non kém, nên họ thực hành lẫn lộn giữa tín ngưỡng Di-đà Tịnh Độtín ngưỡng Di-lặc đương lai hạ sinh. Việc này trên những bài minh tạo tượng ở các động Long Môn, Cổ Dương v.v… có ghi: Bài minh tạo tượng Di-lặc bằng đá của tì-kheo Tăng Hân tạc, vào niên hiệu Thái Hòa thứ 23 (499TL) có ghi: “Tôi vì cha mẹ hiện đời và quyến thuộc, sư tăng, mà tạo một pho tượng Di-lặc bằng đá, nguyện mọi người được sinh về cõi Phật Vô Lượng ThọTây phương, dự ba hội thuyết pháp dưới cội Long Hoa, nếu họ sinh trong nhân gian thì làm con cháu vương hầu và cùng sinh vào một chỗ với đại bồ-tát”. Bài minh tạo tượng Di-lặc của tì-kheo-ni Pháp Khánh tạc vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ 3 (510TL), có ghi: “Nguyện đời sau thác sinh về cõi nước Diệu Lạc Tây phương, nếu sinh vào nhân gian thì làm công tước, vương hầu hoặc trưởng giả”. Cũng vào năm ấy (510TL), bài minh tạo tượng Thích-ca của tì-kheo-ni Huệ Trí tạc, có ghi: “Nguyện đời sau thác sinh về cõi nước Diệu Lạc Tây phương, nếu sinh vào nhân gian thì làm công tước, vương hầu hoặc trưởng giả, tương lai sinh vào thời Phật Di-lặc”. Đây là kết hợp tín ngưỡng Di-lặc hạ sinhtín ngưỡng Tịnh độ Di-đà, nương công đức tạo lập tượng Di-lạc v.v..., trước nguyện cầu sinh Tây phương, sau khi Di-lặc hạ sinh thành Phật, rồi họ lại sinh vào nhân gian làm con của vương hầu, dự ba hội thuyết pháp dưới cội Long Hoa.

Lại nữa, người đem công đức tạo lập tượng Phật A-di-đà để nguyện sinh cõi trời cũng không ít. Như bài minh tạo tượng Phật A-di-đà của nữ thanh tín Hoàng Pháp Tăng tạc vào niên hiệu Hiếu Xương thứ 2 (526TL), thời Bắc Ngụy, có ghi: “Người chết sinh thiên, hết khổ được vui”. Bài minh tạo tượng Phật Vô Thọ (chữ 受 (thọ) là chữ được vay mượn dùng cho chữ 壽(thọ), dưới chữ 無 (vô) sót mất chữ 量(lượng)) của ngài Huệ Giám tạc vào niên hiệu Vũ Định thứ 3 (545TL), thời Đông Ngụy. có ghi: “Vì mẹ mất nên tạo tượng Phật Vô Thọ, nguyện sinh về thiên quốc”, Niên hiệu Vũ Định thứ 7 (549TL), bài minh tạo bốn tượng Phật, bồ-tát bằng đá, có ghi: “Nhờ công đức này, nguyện người chết được sinh thiên, vãng sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương”. Bài minh tạo tượng Phật A-di-đà bằng đá vào niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (597TL), thời Tùy, có ghi: “Khi xả thân uế tạp này, nguyện được gặp Di-lặc, thác sinh Tây phương”, các bài minh đều ghi như vậy. Chữ ‘Thiên’ tuy có thể được coi là chữ thiên của Nho giáo, nhưng trong đây là văn nguyện tạo tượng Phật, vả lại tín ngưỡng Di-đà và tín ngưỡng Di-lặc đã được kết hợp lại với nhau từ xưa; có thể thấy chữ thiên ở đây là chỉ cho trời Đâu-suất tịnh độ của Di-lặc mà thôi. Nếu như thế thì tất nhiên là đem việc sinh lên trời Đâu-suất và việc vãng sinh Tây phương nhập chung lại. Về sau, tư tưởng này lại gọi tịnh độ Di-đà là nước Thiên Thọ, như kinh Hoa nghiêm quyển 46 được phát hiện ở Đôn Hoàng, vào niên hiệu Khai Hoàng thứ 3 (583TL), thời Tùy, có ghi: “Nguyện cha mẹ qua đời thác sinh về nước Thiên Thọ ở Tây phương”. Bài kí tạo tượng Phật A-di-đà ở hang động chùa Linh Nham, núi Thiên Phật (huyện Lịch Sơn, tỉnh Sơn Đông), thời Tùy, có ghi: “Kính tạo một pho tượng Phật A-di-đà, nguyện cùng tất cả chúng sinh đồng sinh nước Thiên Thọ”, Vào niên hiệu Suy Cổ thứ 30 (622TL), Nhật Bản, vua thương tiếc thái tử Thánh Đức bị đoản mạng, nên làm màn thêu cảnh nước Thiên Thọ, e rằng đây cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng này, hình ảnh ấy biểu thị tướng trạng thái tử được vãng sinh tịnh độ Di-đà. Tóm lại, như trên cũng có thể biết tín ngưỡng Di-đà cũng đã được lưu hành ở phương bắc.

Tiết 2: Bồ-đề-lưu-chi và sáu vị đại đức của Tịnh Độ

Ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) là người Bắc Ấn-độ. Niên hiệu Vĩnh Bình nguyên niên (508TL), đời Hoàn Vũ Đế, thời Bắc Ngụy, ngài đến Lạc Dương, dịch truyền các kinh luận như: Thập địa kinh luận, kinh Nhập lăng-già, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá nguyện sinh kệ của ngài Thế Thân v.v… Trong số đó, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá nguyện sinh kệ có tên khác là Vô Lượng Thọ kinh luận, hoặc gọi Vãng sinh luận, lại còn gọi là Tịnh Độ luận, giảng giải về pháp vãng sinh ngũ niệm môn. Lịch đại tam bảo kỷ quyển 9 v.v… ghi là những kinh luận này được dịch vào Phổ Thái nguyên niên (539TL). Nhưng Khai nguyên thích giáo lục quyển 6 ghi là được dịch vào niên hiệu Vĩnh An thứ 2 (529TL). Vì Bồ-đề-lưu-chi truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 1 v.v…có ghi là ngài chưa có truyền bá tín ngưỡng Tịnh Độ, nhưng trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước, thời Đường, quyển hạ liệtsáu vị kế thừa tông Tịnh Độ: Bồ-đề-lưu-chi, Huệ Sủng, Đạo Trường, Đàm Loan, Đại Hải, Pháp Thượng, lại cho rằng ngài Lưu-chi là sơ tổ của tông Tịnh Độ. Sáu vị đạo đức này đều hiểu tường tận đại thừa, ca ngợi Tịnh Độyếu môn vô thượng.

Vả lại, căn cứ Đàm Loan truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 6 có ghi: “Trên đường đi về phía nam, ngang qua Lạc Dương, ngài Đàm Loan gặp ngài Bồ-đề-lưu-chi và hỏi:

- Trong Phật pháppháp trường sinh bất tử hơn kinh Tiên ở Trung Quốc hay không?

Ngài Bồ-đề-lưu-chi nhổ nước miếng xuống đất rồi chà đi, cầm quyển Quán Kinh trao cho ngài Đàm Loan và nói:

- Phương pháp này của Đại Tiên[5], ông y theo đó tu hành sẽ được giải thoát sinh tử.

Nếu việc này là thật thì ngài Lưu-chi có lẽ là người tín ngưỡng Tịnh Độ Di-đà; nhưng mà An Lạc tậpTịnh Độ luận của Ngài Ca Tài v.v… đều không có ghi lại việc này, có lẽ là do việc dịch kinh Vô Lượng Thọ mà kèm thêm truyền thuyết, nên khó cho đó là sự thật.

Ngài Huệ Sủng e rằng là ngài Đạo Sủng, Tục cao tăng truyện quyển 7 có ghi: Ngài Đạo Sủng theo ngài Bồ-đề-lưu-chi học Thập địa kinh luận, rất nổi tiếng ngang với ngài Huệ Quang và được coi là tổ của phái Địa luận ở phương bắc. Nhưng cũng chưa nói đến ngài có quy ngưỡng Tịnh Độ.

Ngài Đạo Trường (場) có bản ghi là Đạo Trường (長). Căn cứ Đại trí độ luận sớ của ngài Huệ Ảnh, thời Bắc Chu, quyển 24 có ghi: “Ngài trước là đệ tử của ngài Huệ Quang, sau nghe ngài Bồ-đề-lưu-chi giảng thuyết, gặp một đoạn không vừa lòng, nên ngài bỏ vào núi Tung Cao (huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam), suốt mười năm đọc luận Đại trí độ. Sau đó, ngài xuống núi giảng luận này”. Luận Đại trí độ được hưng khởi là nhờ vào ngài. Lại nữa, Chí Niệm truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 11 có ghi: “Ở Nghiệp Đô (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam) có pháp sư Đạo Trường tinh thông luận Đại trí độ, là bậc thầy của các học giả”. Minh Chiêm truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 24 cũng có ghi: “Minh Chiêm nương pháp sư Đạo Trường ở chùa Đại Tập, Nghiệp Hạ, chuyên học luận Đại trí độ”. Như thế có thể biết ngài Đạo Trường đã ở chùa Đại Tập, Nghiệp Đô, giảng giải luận Đại trí độ rất thịnh. Tập thần châu tam bảo cảm thông lục quyển trung của ngài Đạo Tuyên, thời Đường và Pháp uyển châu lâm quyển 15 đều có ghi: “Đời Văn Đế, thời Tùy, sa-môn Minh Hiến ở chỗ pháp sư Đạo Trường, sống vào thời Cao Tề, được tượng Phật A-di-đà và 25 bồ-tát do bồ-tát Ngũ Thông ở chùa Kê-đầu-ma, Thiên Trúc vẽ, rồi sa-môn vẽ lại để lưu hành. Điều này chắc chắn ngài Đạo Trường (長) chính là Đạo Trường (場), nếu đúng sự thật thì ngài Đạo Trường có thể là người tín ngưỡng Phật Di-đà, thụ trì Ngũ Thông mạn-đà-la. Biện chính luận của ngài Pháp Lâm, thời Đường, quyển 3 có ghi: “Hiếu Văn Đế, thời Bắc Ngụy, vào ngày giỗ của thái hậu, vua khóc ở phia đông lăng thái hậu, rồi ra lệnh xây dựng chùa An Dưỡng ở Nghiệp Đô. Điều này có thể biết, đương thời ở Nghiệp Đô đã có phụng hành tín ngưỡng Di-đà.

Lại nữa, thiền sư Đại Hải có lẽ là ngài Huệ Hải, Tục cao tăng truyện quyển 12 có ghi: Ban đầu, ngài Huệ Hải theo pháp sư Quýnh ở chùa Quảng Quốc, Nghiệp Đô, nghe giảng các kinh Niết-bàn, kinh Lăng-già. Về sau, ngài đến ở chùa An Lạc, thành Kiến Giang (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô). Niên hiệu Đại Nghiệp thứ 5 (609TL), thời Tùy, ngài thị tịch, thọ 69 tuổi. Thuở bình sinh, ngài lấy Tịnh Độ làm kì hạn, lại được tượng Phật Vô Lượng Thọ theo bức họa của bồ-tát Ngũ Thông từ vị tăng tên Đạo Thuyên ở Tề Châu (huyện Lịch Thành, tỉnh Sơn Đông) rồi ngài mô phỏng theo đó mà vẽ, và nguyện sinh Tịnh Độ càng ngày càng tha thiết. Do đó, chúng ta biết ngài Huệ Hải cũng rất tin và thờ Ngũ Thông mạn-đà-la.

Do có liên quan đến xuất xứ của Ngũ Thông mạn-đà-la, căn cứ vào Tập thần châu tam bảo cảm thông lục quyển trung có ghi: “Xưa bồ-tát Ngũ Thông ở chùa Kê-đầu-ma, Thiên Trúc, đến thế giới An Lạc thỉnh Phật A-di-đà, chúng sinh ở thế Ta-bà nguyện sinh Tịnh Độ, không có hình tượng Phật, nguyện lực chẳng biết dựa vào đâu, xin Ngài giáng xuống cõi này. Bấy giờ, Đức Phật cùng với năm mươi vị bồ-tát đều ngồi trong hoa sen, hiện ở trên lá cây, bồ-tát Ngũ Thông liền lấy lá cây ở đó, vẽ lại hình các Ngài, rồi cho lưu truyền khắp nơi. Thời Hán Minh Đế, con trai của chị ngài Ma-đằng xuất gia làm sa-môn, rồi đem hình tượng các Ngài đến Trung Quốc. Những chỗ sa-môn đi qua đều được vẽ lại bức họa này. Không bao lâu, sa-môn lại mang bức họa trở về Tây Trúc, nhưng bức họa ấy không được truyền bá rộng lắm. Thời Ngụy, Tấn về sau, thời gian rất lâu, rồi trải qua thời kì pháp diệt, kinh tượng bị mai một, bức họa ấy hầu như cũng không còn thấy nữa. Đến đời Văn Đế, thời Tùy, sa-môn Minh Hiến phát hiện có một bức họa ở chỗ pháp sư Đạo Trường, sống vào thời Cao Tề, sa-môn nói về duyên khởilưu truyền của bức họa, rồi theo bức họa ấy vẽ lại lưu truyền khắp nơi. Bấy giờ, thời Bắc Tề có họa sĩ tên Tào Trọng Đạt vẽ rất đẹp, lại khéo viết được tiếng Phạn, ông đã dựa theo bức họa ấy rồi vẽ trên vách chùa”. Bức họa này được truyền sang từ thời Hậu Hán. Truyền thuyết này chắc chắn không thể không tin.

Như đoạn văn trước nói, Vãng sinh truyện của ngài Giới Châu được tàng trữ ở chùa Chân Phước, quyển trung có ghi: “Xà-na-đạt-ma ở Trung Ấn Độ, phát tâm qui hướng Cực Lạc, ngài vẽ tượng Phật A-di-đà và hai mươi lăm vị bồ-tát, rồi mang đến Trung Quốc. Đồng thời, ngài làm bài kệ:

Nếu muốn cầu Tịnh Độ

Phải tạo vẽ tượng Phật

Lâm chung thấy được Ngài

Chỉ đường lối nhiếp tâm…”

Hai mươi lăm vị bồ-tát ấy và hai mươi lăm vị bồ-tát trong Thập vãng sinh A-di-đà Phật quốcliên quan với nhau hay không, tuy không xác định rõ nhưng bức họa đều có hình vẽ liên quan đến Phật A-di-đà thì có thể thấy là có sự ghi chép nhầm về hai mươi lăm vị bồ-tát này. Nếu như vậy thì Ngũ Thông mạn-đà-la có lẽ do tam tạng Xà-na-đạt-ma truyền đến Trung Quốc vào đầu thời Bắc Tề. Duy thức luận đồng học sao 10 quyển, trong quyển 4 có ghi: “Ngài Trí Chu ở viện Tây Phương Tịnh Độ, Bộc Dương (huyện Bộc Dương, tỉnh Hà Bắc) họa tượng Phật A-di-đà và hai mươi lăm vị bồ-tát như Quán Âm, Thế Chí, và phát tâm qui hướng Tây phương, bỗng cảm ứng được điềm lành”. Do đó, có thể biết bức họa ấy đến đời Đường còn vẫn được lưu truyền. Về sau bức họa ấy được truyền sang Nhật Bản, quyển Giác thiền sao A-di-đà có sao chép lại bức họa ấy.

Tiết 3: Quy tín Tịnh Độ của các ngài Huệ Quang v.v…

Ngài Huệ Quang là người có nổi tiếng ngang với ngài Đạo Sủng môn nhân của ngài Bồ-đề-lưu-chi, được tôn xưng là tổ của phái Địa luận ở phương Nam. Tục cao tăng truyện quyển 21 có ghi: “Lúc đầu, ngài Huệ Quang nhận chức Quốc tăng đôLạc Dương, về sau được mời về Nghiệp Đô giữ chức Quốc thống. Ngài thường nguyện sinh về cõi Phật, mà không nhất định cõi Phật nào. Cho đến lúc lâm chung, ngài mới chí thành hướng tâm về tịnh độ An Dưỡng.

Ngài Pháp Thượng là môn nhân của ngài Huệ Quang, An Lạc tập ghi ngài là một trong sáu đại đức, theo Tục cao tăng truyện quyển 8 ghi: Ngài nổi tiếng ngang với Đạo Trường, sùng tín Di-lặc nên nguyện sinh lên cõi trời Đâu-suất. Niên hiệu Đại Tượng thứ 2 (580TL), thời Bắc Chu, ngài thị tịch, hưởng thọ 86 tuổi. Như thế thì ngài không phải là người tín ngưỡng Phật Di-đà, nhưng ngài Đạo Xước cũng đưa ngài vào một trong những vị tán dương và qui hướng về tịnh độ, e rằng ý tịnh độ của ngài Đạo Xước có nghĩa rộng bao hàm cõi trời Đâu-suất chăng! Cũng Tục cao tăng truyện quyển 8 có ghi: Ngài Đạo Bằng môn nhân của ngài Huệ Quang thường cầu sinh Tây phương, khi lâm chung, cảm ứng được điềm lành thấy ánh sáng của Phật. Cũng Tục cao tăng truyện quyển 9 có ghi: Ngài Linh Dụ môn nhân của Đạo Bằng trứ tác Vô Lượng Thọ kinh sớ, Quán Vô Lượng Thọ kinh sớVãng sinh luận sớ để làm sáng tỏ giáo nghĩa Tịnh Độ. Theo đây ta có thể biết phái Địa luận ở phương Nam và phương Bắc đều coi trọng vãng sinh Tịnh Độ.

Lại nữa, Đại thừa khởi tín luận xưa nay tương truyền là do bồ-tát Mã Minh trứ tác, ngài Chân Đế dịch vào thời Lương, luận này đầu tiên đề xướng duyên khởi của Như Lai tạng, lấy chân như làm nơi y trì của tất cả pháp, đây là hợp với thuyết của các sư phái Địa luận ở phương Nam. Ngài Pháp Kinh, thời Tùy, đem xếp luận này vào Nghi hoặc lục ở quyển 5 trong Chúng kinh mục lục, xét rằng: “Chân Đế lục không có luận này cho nên xếp vào Nghi hoặc lục”. Lại nữa, Tứ luận huyền nghĩa quyển 10 của ngài Huệ Quân, thời Đường (được Tam luận huyền sớ văn nghĩa yếu quyển 2 của Trân Hải dẫn dụng) có ghi: “Các luận sư ở phương Bắc nói: Luận này không phải do bồ-tát Mã Minh trứ tác. Ngày xưa, Địa luận sư tạo luận rồi mượn tên của Bồ-tát, cho nên tìm kiếm trong mục lục kinh luận không có”. Người của Địa luận ở phương Bắc thì nói luận này không phải bồ-tát Mã Minh trứ tác mà do Địa luận sư ngụy tác. Bởi cuối phần Tín tâm tu hành trong luận Đại thừa khởi tín có ghi: “Học pháp Chỉ Quán, muốn cầu chính tín, vì trụ ở thế giới Ta-bà nên không thể thường gặp chư Phật và đích thân cúng dường, vì vậy tín tâm khó thành tựu. Sợ người thoái đọa nên khuyên họ chuyên niệm Phật A-di-đà ở Tây phương, cầu vãng sinh tịnh độ, được trụ chính định tụ”. Có thể thấy đây là nương vào thuyết hai đạo khó hành và dễ hành của ngài Long Thọ, cũng tương thông với chủ trương phân biệt khó, dễ, cõi này, cõi kia của ngài Đàm Loan. Địa luận sư đã rất quan tâm đến tín ngưỡng Di-đà. Thiết nghĩ nếu đúng như lời truyền thuật của ngài Huệ Quân thì luận này do Địa luận sư ở phương Nam ngụy soạn.

Lại nữa hiện nay ở trong Tạng có bộ kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo 2 quyển, do Thiên Trúc tam tạng Bồ-đề Đăng dịch, nhưng lai lịch của ngài Bồ-đề Đăng không rõ ràng; còn Lịch đại tam bảo kỷ quyển 12 có ghi: “Niên hiệu Khai Hoàng thứ 13, thời Tùy, vua hạ chiếu thỉnh các đại đức Pháp Kinh v.v… khảo nghiệm sự chân ngụy của kinh này và ban sắc chỉ cấm lưu hành. Chúng kinh mục lục quyển 2 của Pháp Kinh, Chúng kinh mục lục quyển 4 của Ngạn Tông, đều ghi kinh này vào trong phần nghi hoặc, cho nên rõ ràng kinh này chẳng phải dịch ra từ sách Phạn, quyển hạ kinh này nói về thật nghĩa của đại thừa, giáo nghĩa của nó gần như giống với Đại thừa khởi tín luận. Cuối quyển kinh có ghi: “Tuy học và tin hiểu như vậy nhưng người ít thiện căn chưa có thể tiếp nhận được, người sợ thoái đọa nên niệm danh hiệu Phật, quán pháp thân Phật, tu hành như thế cũng có thể tùy nguyện vãng sinh về tịnh độ của Phật, thiện căn tăng trưởng, chóng được bất thoái. Đồng với Khởi tín luận cổ súy pháp vãng sinh Tịnh Độ. Phần Tư ký trong Thám huyền ký quyển 3 của Trân Tung, người Tân La, (được Bảo san sao quyển 8 của Hiền Bảo dẫn dụng) có ghi: “Khởi tín luận y theo ngụy kinh Tiệm sát mà tạo, cho nên luận ấy cũng thuộc ngụy luận. Tiệm sát (漸剎) là mượn âm Chiêm sát (占察), tức chỉ kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo. Thế nên biết xưa nay chỉ trích rằng Khởi tín luậnChiêm sát kinh đồng loại. Nay Khởi tín luận nếu là do Địa luận sư phương Nam tạo, thì Chiêm sát kinh cũng tất nhiên là sự ngụy tác của người đồng phái. Việc này tôi đã nói rõ trong cuốn Nghiên cứu Đại thừa khởi tín luận, luận này nếu thật như vậy thì có thể xét biết tín ngưỡng Tịnh Độ luôn luôn được các Địa luận sư xem trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19874)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20945)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19307)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40562)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21281)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41098)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24133)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23077)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17855)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26978)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20750)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33655)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21043)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28949)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12711)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25330)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19161)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17528)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25807)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19022)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19006)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29047)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18918)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33358)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38426)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31267)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18250)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24531)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19459)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17919)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23080)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18038)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32221)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17397)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17441)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16093)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18576)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20780)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18082)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20128)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14903)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20927)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15070)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15770)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12945)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14514)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14929)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29425)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14537)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant