Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần A: Dẫn Nhập

22 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11140)
Phần A: Dẫn Nhập


Phần A : DẪN NHẬP

I. NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT

Pháp Quán Thế Âmđệ nhứt tâm pháp vì nó là một sản phẩm cao quý của lý tưởng Đại Thừa, được đức Phật đề cập trong ba bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Kinh Bát Nhã, và Diệu Pháp Liên Hoa.

Pháp Quán Thế Âmtính cách phổ môn vì nó được phổ biến khắp cửa nhà, khắp nơi chốn nhằm biến tối thành sáng, biến sầu hận thành an vui, biến đau thương thành hạnh phúc.

Bồ Tát Quán Thế Âm rất gần gũi với chúng ta. Tiêu biểu cho đức tánh Đại Từ Bi, Ngài luôn cứu giúp chúng sanh đau khổlâm nạn, không phân biệt nam nữ, tín ngưỡng, quốc gia, dân tộc, dưới dạng một nữ Bồ Tát mà người đời thưòng tôn xưng là Phật Bà Quán Âm Nam Hãi.

Tình thương mà Ngài ban rãi cho muôn loài là một thứ tình thương bất vụ lợi, vô tư giống như ngàn hoa cùng đua nở để tô điểm cho cuộc đời được thêm tươi.

Trong thế giới cuồng loạn ngày nay, mọi người đang tranh giành quyền lợi, cấu xé lẫn nhau vì miếng cơm manh áo, vì bả vinh hoa, phú quí nên đau khổphiền não là những hậu quả đương nhiên, khó bề tránh khỏi.

Để có thể giúp mọi người vượt qua khổ ách, chúng ta phải phát huy tình thương bằng cách hành các pháp mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu trong vô lượng kiếp về trước. Những cảnh khổ đau càng diễn tả ra trên đời nhiều chừng nào thì chúng ta càng phải ra sức công phu hành trì các pháp ấy càng nhiều chừng nấy. Đời càng khổ, pháp Quán Thế Âm mới càng có gía trị thiết thực. Đó là lý mâu thuẫn, đối kháng luôn diễn bày trong cảnh giới nhị nguyên, giữa hai thế lực, một của đau khổ phá hoại và một của tình thương xây dựng. Đó cũng là nguyên nhân chánh yếu chứng minh sự cần thiết của pháp Quán Thế Âm trong thời kỳ mạt pháp, xa Phật thiếu pháp, nặng vật chất, nhẹ tinh thần như thời kỳchúng ta đang sống vào cuối thế kỷ 20, sắp bước sang thế kỷ 21. Có thể nói mà không sợ sai lầm, pháp Quán Thế Âm là pháp tu tập của thời đại.

Vì thế trước khi hành chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận pháp này, đúng theo một quy trình quen thuộc trong Phật pháp, đó là quy trình TÍN, GIẢI, HẠNH, QUẢ.

Chúng ta tin vào khả năng gia hộ của Bồ Tát, tin vào giá trị của các pháp mà Ngài đã từng hành trì. Từ đó chúng ta mới tìm hiểu sâu rộng, tìm biết cho đúng chánh pháp của Ngài.

Thông thường, hể nói đến pháp Quán Thế Âm thì người ta liền liên tưởng đến pháp Phổ Môn, cứu khổ cứu nạn của Ngài trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Pháp Phổ Môn nằm trong Phần 25, kinh Pháp Hoa, là pháp xiển dương công đức cứu độ của Bồ Tát, bởi lẽ Quán Thế Âm là << ánh sáng thanh tịnh, là mặt trời huệ soi sáng các chỗ tối tăm, hàng phục nạn tai khói lửa, là tâm Đại Bi rưới mưa pháp cam lồ dứt trừ phiền não xua đuổi hận thù nơi pháp đình cũng như nơi trận địa >>. (Phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa).

Nhưng thật ra, pháp Quán Thế Âm không phải đơn thuần chỉ có pháp Phổ Môn, nó còn gồm có pháp tu Nhĩ căn viên thông trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, và pháp chiếu soi hay chiếu kiến ngủ uẩn giai không trong Tâm kinh Bát Nhã.

Hai pháp này rất quan trọng đối với những ai đang và sẽ tu Phật vì chúng có khả năng giúp chúng ta bước vào cửa động Thiếu Thất của Thiền Đông Độ để hòa nhập với bản thể Chơn như thanh tịnh.

Không hành hai pháp này, làm sao chúng ta có thể tỏ thấu được pháp tánh vô sanh ? Tuy việc thể nhập Chơn Như chỉ là cái bước đầu làm căn bản cho quá trình tu tập của chúng ta để đi đến chứng đắc tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, nhưng xét cho chùng bất cứ ai tu Phật mà không thể nhập được Chơn Như, dù thể nhập từng phần, từng phần cũng vậy, thì cũng như người đó không tu, không sửa, không làm được điều gì có lợi cho người và cho mình.

II. SỰ TÍCH CỦA BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM :

Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhản Quán Thế Âm Bồ Tát, quảng đại, viên mãn, vô ngại đại bi tâm Đà la ni, được Samôn Bạc Già Đạt ma (Bhagavaddharma) người Ấn dịch từ Phạn sang Hoa ngữ, vào đầu thế kỷ thứ 7, sau Tây lịch, đời nhà Đường, thì đức Phật Thích Ca khi ngự tại Đạo Tràng Bảo Trang Nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm, đã giới thiệu cho tự chúng biết về sự tíchcông hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm qua việc hành trì thần chú Đại BiBồ Tát đã thọ nhận trong vô lượng ức kiếp về trước nơi đức Phật Thiên quang Vương Tịnh Trụ.

Lúc được Phật Tịnh Trụ trao cho thần chú Đại Bi, Bồ Tát vẫn còn ở đảng vị Sơ Địa. Vừa nghe xong thần chú, Ngài liền chứng được đệ bát ĐịaVô cùng cảm kích, Ngài vội vàng phát ra lời đại nguyện sau đây :

“Nếu trong đời vị lai, con có thể đem lợi ích và an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho con được 1000 tay, 1000 mắt”. Phát nguyện xong, 1000 tay và 1000 mắt đều hiện ra đủ nơi thân Ngài. Theo lời giải thích của Phật thì mỗi tay tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Mà chúng sanh luôn mong cầu và mong cầu rất nhiều việc, do đó Bồ Tát mới nguyện cho có đủ 1000 tay để giúp đở chúng sanh.

Theo kinh Bi Hoa, tiền thân của Bồ TátThái tử BẤT HUYỀN, có em ruột là Vương tử Ni Ma mà kinh Phật thường gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí, cả hai đều là con của vua Vô Tranh Niệm. Về sau, Vua thị hiện làm 1 trong 16 Vương tử, còn của một vị vua bỏ ngôi đi tu thành Phật, hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai (Kinh Pháp Hoa, Phẩm 7 : Thí dụ về Hóa Thành). Tất cả 16 vương tử đều thành Phật, vị thứ 9 là Phật A Di Đà, phạn ngữ là Amitabha, dịch nghĩa là Vô Lương Thọ, Vô Lượng Quang ở phương Tây, còn vị thứ 16 là Phật Thích Ca Mâu Nicõi Ta Bà.

Đức Phật A Di Đà chính là vua Vô Tranh Niệm thường được tượng thờ chung với hai vị nữ Bồ Tát, bên trái là Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên lưng rồng, tay câm hồ lô và cành dương liễu, bên phải là Bồ Tát Đại Thế Chí, một vị tiêu biểu cho tâm Bi, một vị cho Đại Trí.

Dưới con mắt của người đời, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là Phật Bà Quan Âm Nam Hải luôn thị hiện cứu giúp chúng sanh lâm nạnhóa độ để tiếp dẫn họ về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà lúc lâm chung. Ngài là vị cổ Phật được biết dưới danh hiệuCHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI.

Do đâu mà ngày nay các chùa chiền lấy ngày 19 tháng 2 Âm lịch làm ngày vía đản sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm? Đây là một sự tích bên Trung Hoa ở đời nhà Tùy (581-618) của một vị Hòa Thượng, sanh nhằm ngày 19-2 ÂL. Sau khi tịch diệt, nhục thân của vị Hòa thượng được hỏa táng. Ngay lúc đó, tự nhiên hiện ra giữa hư không một thân người vô cùng tốt đẹp khiến cho mọi người cho đó là hóa thân cùa Bồ Tát Quán Thế Âm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10190)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13587)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13733)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22202)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21862)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27373)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25246)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23272)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22762)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25694)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13988)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13432)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22468)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18470)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34504)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27373)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28419)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21368)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14888)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19198)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10617)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18569)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13180)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14024)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11790)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11631)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11338)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11889)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19941)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12394)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31963)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13434)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12756)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13329)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11893)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21862)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11092)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12899)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant