Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi

16 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6435)
2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT

ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

2
TỰ GIẢI THOÁT KHỎI SỰ SỢ HÃI

« Sự sống của ta khi cưỡng lại những nguyên nhân đưa đến cái chết giống như một ngọn đèn cưỡng lại một cơn gió mãnh liệt » 
Bảo hành vương chính luận (Bồ Tát Long Thọ)

 
Vị Ban thiền Lạt ma thứ nhất có viết một bài thơ gồm mười bảy tiết (đoạn) mà nhiều người Tây tạng thường đọc đi đọc lại để tập trung sự suy tư hằng ngày về cái chết. Tựa bài thơ là: Ước vọng được giải thoát khỏi những hiểm nguy của Giai đoạn Chuyển tiếp, Người can trường thoát khỏi sự sợ hãi. Muốn thoát khỏi tình thế hiểm nguy, chẳng hạn như bị trộm cướp, đạo tặc, hay thú dữ, ta cần có một người hướng dẫn can đảm, thông minh để bảo vệ ta. Cũng thế, muốn được giải thoát khỏi sự sợ hãi do những ảo giác hiện ra lúc chết và trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống, ta nên noi theo những lời khuyên trong bài thơ này, bài thơ sẽ chỉ cho ta những kỹ thuật cần thiết. Khi nghiền ngẫm về bài thơ, ta sẽ học được phương cách phát hiện sự sáng suốt giúp ta vượt qua quá trình chuyển tiếp đó. Chết chính là lúc tâm linh hiển hiện ở mức độ cao siêu nhất. Suy tư hằng ngày cũng có thể phát hiện được những trạng thái tâm linh như thế.

Bài thơ gồm một chuỗi dài nguyện ước giúp cho mỗi người đem ra sử dụng khi cái chết xảy ra, trong mục đích giúp tâm thức ứng phó một cách tích cực hơn. Một số người, trong lúc chết, tìm cách phát huy năng khiếu tốt lành sẳn có để tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hơn. Mục đích của họ là đạt được sự tái sinh tốt đẹp trong kiếp sống sau này để có thể tiếp tục tu học. Một số khác tìm cách dựa vào các cấp bậc thâm sâu của tâm linh hiển hiện trong khi chết để vượt lên những thể dạng tâm linh cao thâm hơn nữa. Những người tu hành thì phát lộ lòng thiết tha phục vụ kẻ khác.

Bài thơ của vị Ban-thiền Lat-ma thứ nhất đề cập đến ba cấp bậc tu tập khác nhau – những người tu tập cao, những người đạo hạnh trung bình và những người còn thấp – cả ba cấp bậc tu tập ấy đều hướng vào sự ước vọng giữ cho tâm thức vững vàng để vượt qua giai đoạn chuyển tiếp trong khi chết, tức là khoảng thời gian tiềm ẩn giữa kiếp sống này và kiếp sống tương lai. Bài thơ còn chỉ dẫn chi tiết những gì nên làm trong từng thời điểm một. Đạt được một mức độ tu tập nào đó trong những ngày còn lại trong kiếp sống này quả là một điều cần thiết, đến khi chết ta có thể vượt qua những giai đoạn trung gian hiệu quả hơn.

Khi cái chết bất thần hiện ra, nếu ta không quen tu tập từ trước, thật khó cho ta ứng phó một cách thuận lợi. Thời điểm hôm nay là lúc ta nên tu tập để chuẩn bị trước, vì lúc này đây ta đang hạnh phúc và có nhiều điều kiện thuận lợi. Nếu ta thực hiện được, đến khi cần đến trong lúc hiểm nguy thật sự, ta sẽ không gặp khó khăn gì cả. Nhưng nếu lúc ta còn đủ thì giờ để nghe, để suy tư, để nghiền ngẫm và thắc mắc, ta lại không chịu chuẩn bị cho giây phút hấp hối, đến khi đó mọi sự đã trễ rồi, ta sẽ không có gì che chở cho ta, chẳng có một điểm nương tựa nào, ta chỉ còn hai mắt để khóc. Tốt hơn là sớm tập suy tư thường xuyên về quá trình của cái chết trong giai đoạn trung gian giữa hai kiếp sống – để hình dung mọi biến cố sẽ xảy ra, giúp ta quen dần với chúng. Quả thậthệ trọng, lúc này đây ta vẫn còn ngày giờ để tận dụng những khả năng tốt nhất của ta với mục đích sau này sẽ giúp ta vượt qua giai đoạn trung gian một cách hiệu quả

Biết được quá trình của cái chết và các phương pháp tập luyện chưa đủ: phải thực tập hàng tháng hay hàng năm liền cho thật quen. Ngày hôm nay khi giác quan còn lanh lẹ, tri thức còn tinh tấn, nhưng nếu tâm thức chưa quen với con đường đạo hạnh, khi chết ta sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ vì phải phiêu lưu trên những nẽo đường hoàn toàn xa lạ. Khi chết, sức lực sẽ suy giảm vì bệnh tật, tinh thần sa sútlo âu. Bởi thế phải tập luyện để chuẩn bị cách đối phó trong khi chết. Không có gì thay thế được và cũng chẳng có phương thuốc nào khác hơn.

Khả năng cần thiết để hiểu được những điều ấy là tùy nơi quyết tâm của ta, quyết tâm tin rằng những cảm nhận về hạnh phúc hay đớn đau đều trực tiếp lệ thuộc vào những hành vi đạo hạnh hay tệ hại của chính ta. Trước hết, cần phải hiểu rõ quá trình của luật nhân quả, hay nghiệp (karma), tức những hành động tốt phát xuất từ một tâm thức hiền hòa, những hành động xấu phát xuất từ một tâm thức hổn loạn. Tuy rằng thiện, ác, đều do thân, khẩu và ý tạo ra nhưng chính tâm thức dẫn đầu. Cội nguồn của sự tu học Phật giáo là hướng vào việc cải thiện tâm thức. Giáo huấn nhà Phật đòi hỏi ở ta một tâm thức kỷ cương giúp ta nhận biết chính ta là nguyên nhân đem đến an vui hay khổ đau cho chính ta. Phật đã từng nói như sau:

Chư Phật không tẩy sạch được những hành động xấu bằng nước,
Cũng không xóa hết được những khổ đau do chính tay mình đã tự hoán chuyển cho mình, 
Cũng không chuyển những khổ đau đó sang cho kẻ khác được.
Chúng sinh chỉ có thể tự giải thoát bằng những lời giáo huấn liên quan đến thực thểbản chất của vạn vật.
Chính ta là người tự che chở cho bản thân ta. An vui hay đau buồn nằm trong tay của chính ta.

NHÌN TỔNG QUÁT VỀ BÀI THƠ

Bài thơ của Ban-thiền Lạt-ma gồm mười bảy tiết, trình bày các kỹ thuật đặc biệt của Phật giáo giúp ta vượt khỏi sự sợ hãi phát sinh từ cái chết và lợi dụng những chuyển biến của cái chết để thăng tiến trên mặt tâm linh. Tôi hy vọng việc mô tả các kinh nghiệm và các giai đoạn biến thể trên mặt vật chất sẽ giúp cho những ai cảm thấy cần hiểu biết về cái chết và các cấp bậc thâm sâu nhất của tâm linh có thể suy nghiệm một cách hữu ích. Đó cũng là một nguồn dữ kiện giúp khoa học quan tâm hơn đến sự hợp tác chung giữa các khoa học gia và những người luyện tập du-già trong mục đích tìm hiểu về những hiện tượng liên quan đến cái chết. Trong khi phần đông các học giả cho rằng tâm thức phát khởi từ thân xác, thì một vài chuyên gia lại hình dung tâm thức là một thực thể riêng biệt có thể ảnh hưởng đến thân xác. Nếu những xúc động mạnh, chẳng hạn như hận thù, có thể gây ra ảnh hưởng trên thân xác, thì cũng có những phương cách luyện tập chuyên biệt giúp rèn luyện tâm thức, chẳng hạn như niềm tin, lòng từ bi, thiền định sâu xa về một đối tượng, suy tư về Tánh không của vạn vật, hoặc do các phương pháp thiền định đặc biệt của Ninh-mã phái[3] thuộc Phật giáo Tây tạng. Các kinh nghiệm đó chứng minh cho thấy sự luyện tập tinh thần đưa đến một chức năng độc lập có thể ảnh hưởng đến thân xác, đi đến chỗ có thể làm cho thân xác hoàn toàn tự chủ. Tôi nghĩ rằng tham khảo các y tá trong các nhà dưỡng lão chẳng hạn về những triệu chứng khi sắp chết có lẽ rất hữu ích.

Bảy tiết đầu trong bài thơ của Ban-thiền Lạt-ma giúp ta phải chuẩn bị cái chết như thế nào. Tiết một nói về quy y Phật, quy y Phápquy y Tăng (tức chương này), hai tiết tiếp theo (chương 3) đề cập đến việc rèn luyện tâm linh để ý thức được giá trị của sự sống. Hai chương này chỉ dẫn các phương pháp tốt nhất để suy tư về vô thường trong hiện tại, tính cách phù du của nó, mục đích giúp ta bớt bám víu quá đáng vào những những cảm nhận tạm bợ. Hai tiết bốn và năm (chương 4) khuyên ta phải tự đặt mình trong một phối cảnh như thế nào để có thể chủ động những khổ đau tột cùng, chẳng hạn như những ảo giác vào giờ phút lâm chung. Hai tiết sáu và bảy (chương 5) chỉ cho ta biết cách kiểm soát cái chết dựa vào những điều đã tu tập từ trước, đồng thời vẫn bảo toàn được sự trầm tĩnh. Ba tiết tiếp theo (chương 6) mô tả chi tiết những biểu hiện trong bốn giai đoạn đầu tiên khi cái chết xảy ra, cũng như các phương pháp chú tâm phải thực thi trong bốn giai đoạn ấy. Đoạn này đòi hỏi ta phải hiểu rõ cách tan rã của các thành phần vật chất cấu tạo ra thân xác, tức cơ sở nương tựa của tri thức và các cảm nhận liên đới với tri thức. Các cảm nhận này sẽ mở đường đưa đến ba cấp bậc tâm thức tinh tếthâm sâu hơn. Các biểu hiện của những cấp bậc tâm thức tinh tế sẽ được mô tả trong tiết tiếp theo (chương 7). Chương này cũng nói đến cấu trúc giữa tâm thức và thân xác dựa theo « Tối thượng Du-già Tan-tra » [4]. Các tiết mười hai và mười ba (chương 8) mô tả phương cách ánh sáng tâm thức trong suốt phát hiện từ những cảm nhận nội tâm chính yếu và cao độ nhất. Cấp bậc thâm sâu tột cùng đó của tâm thức làm nền tảng cho toàn thể phần tri thức của sự sống. 

Bốn tiết sau cùng (chương 9 và 10) vừa mô tả trạng thái trung gian (sau khi đã chết hẳn và trước khi tái sinh trong kiếp sau) vừa chỉ dẫn ta cách phản ứng trước những biến cố thường rất kinh hãi có thể xảy ra trong giai đoạn này. Dù ta còn đang ở trình độ tu tập tinh thần nào đi nữa, các tiết này cũng sẽ chỉ rõ cho ta cách thức hướng dẫn sự tái sinh của ta.

Toàn thể mười bảy tiết giúp người tu tập chuẩn bị trước, đến khi chết sẽ tránh khỏi các tình huống bất lợi, và giúp họ biết xử lý giai đoạn trung gian một cách hiệu quả, vì điều này sẽ ảnh hưởng đến sự tái sinh trong kiếp sau.

MỞ ĐẦU BÀI THƠ: QUY PHỤC VĂN-THÙ SƯ-LỴ[5] 

Trước khi khởi đầu bài thơ, vị Ban-thiền Lạt-ma bày rỏ sự sùng kính của mình, quy phục Bồ tát Văn-thù Sư-lỵ, hiện thân cho Trí tuệ của tất cả chư Phật. Tác giả xem Văn-thù Sư-lỵ là thầy mình. Sự quy phục đối với Văn-thù Sư-lỵ của Ngài là do các lý lẽ sau.

Căn nguyên của một cái chết tốt lành, một giai đoạn chuyển tiếp thành công, kể cả Phật tính của nhiều kiếp sống, đều liên hệ đến kết quả tu tập viên mãn về ánh sáng tinh khiết phát sinh từ cái chết. Có hai phương pháp khác nhau: từ bitrí tuệ. Thực hiện tu tập về ánh sáng trong suốt trong khi chết là do trí tuệ phát huy. Trí tuệ được tuần tự trình bày qua các cấp bậc tu tập về thể dạng thâm sâu phát xuất từ sự đối chiếu giữa những biểu hiện bên ngoài và Tánh không của sự hiện hữu nội tại – những lời giảng huấn này do vị thầy tốt của chúng ta là Phật Thích-Ca Mâu-ni truyền lại qua ngài Văn-thù Sư-lỵ. (Các trình độ giáo huấn khác nhau về lòng quyết tâm và những hành vi thiết thực khác là do Đức Di-lặc và Quán-Thế-Âm Bồ-Tát truyền đạt). Một cái chết thanh thản và những thể dạng chuyển tiếp giữa hai kiếp sống đều nhất thiết liên hệ đến trí tuệ, vì thế ngài Ban-thiền Lạt-ma đã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Văn-thù Sư-lỵ:

QUY PHỤC VỊ THẦY VĂN-THÙ SƯ-LỴ

 Sau khi bày tỏ lòng quy phục của mình đối với bậc trí tuệ, Ban-thiền Lạt-ma bắt đầu đọc thơ:

Tiết 1

Bản thân tôi và toàn thể không phân biệt bất cứ sinh linh nào trong không gian, xin qui y chư Phật của quá khứ, của hiện tại, của tương lai, xin qui y Pháp, xin qui y Tăng,
Cho đến khi nào được hoàn toàn giác ngộ.
Cho chúng tôi được giải thoát khỏi sự sợ hãi trong kiếp sống hiện tại, trong giai đoạn chuyển tiếp, và cho cả về sau.

Người Phật tử noi theo giáo lý của Phật bằng sự cố gắng của chính mình và nượng tựa nơi Phật như một vị Thầy. Họ dựa vào giáo lý của Phật (những lời giáo huấn tùy theo các cấp bậc thực hiện) và đặt niềm tin nơi tập thể những người hướng dẫn tinh thần . Nhập tâm vào những lời giáo huấn ấy sẽ giúp ta tránh khỏi khổ đau. Người Phật tử xem Tam Bảo (Phật, Giáo lý của Phật, Tăng đoàn) là nơi nương tựa tột cùng.

Nương tựa trong mục đích làm nhẹ bớt khổ đau và tránh khỏi luân hồi cho riêng ta sẽ không hội đủ sức mạnh để đặt được sự an trú tối thượng. Cách nhìn ấy còn quá hạn hẹp. Muốn đạt được Phật tính phải hướng vào sự an lành của tất cả các sinh linh có giác cảm, giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Mục tiêu tiên khởi nhất về sự hiểu biết toàn năng của Phật tính là giúp đỡ kẻ khác.

Thật cần thiết phải nghĩ đến tất cả mọi sinh linh trong không gian và phải hướng đến việc tu tập trong mục đích đạt được Giác ngộ tột cùng và tối thượng, thực hiện những nguyện vọng như thế sẽ giúp ta vượt xa hơn những người tu tập nhắm vào các mục đích hạn hẹp. Cách tu tập trên đây đòi hỏi phải loại trừ mọi chướng ngại, không những để giúp ta thoát khỏi vòng luân hồi, mà còn đưa ta đến sự hiểu biết toàn năng. Sự tỉnh giác cuối cùng, còn gọi là niết bàn tối thượng, vượt xa hơn hai cực đoan là chu kỳ sinh, bệnh, tử (samsara), và thể dạng an lạc bất động, các thể dạng hạn hẹp ấy chỉ để giúp ta tự giải thoát ra khỏi chu kỳ của khổ đau, nhưng thiếu hẳn khả năng giúp đỡ kẻ khác.

Ngài Ban-thiền Lạt-ma thứ Nhất khuyên ta nên nương tựa vào Phật, vào giáo lý của Phật và Tăng đoàn để đạt đến Giác ngộ tột đỉnh trong mục đích đem đến sự an lạc cho tất cả chúng sinh. Điều này gọi là sự nương tựa vào nguyên nhân: ta quy y nơi Tam Bảo đang hiện hữu trong chính tâm linh của kẻ khác – quyết tâm làm chấm dứt mọi khổ đau và phát huy những thể dạng tinh thần chế ngự những khổ đau đó. Khẩn cầu những người đã đạt được Tam Bảo là khơi động lòng từ bi của họ, lòng từ bi đó ta không đặt trở lại trong lòng họ mà chính để mở rộng lòng ta.

Hướng vào sự nương tựa nguyên nhân chính là noi theo cách tu tập Đạo Pháp do chính vị Thầy là Đức Phật thuyết giảng. Ngài xem Tăng đoàn là khuôn mẫu cao nhất trong sự thực hiện. Nếu ta chọn con đường tu tập, sau khi đã vượt qua nhiều cấp bậc trên đường giải thoát khổ đau, đạt được một trình độ cao, có nghĩa là ta trở nên một thành viên của Tăng đoàn. Sau đó, trên đường giải thoát khỏi luân hồi mọi chướng ngại sẽ bị loại bỏ dần dần, và rồi ta sẽ trở thành một vị Phật. Khi đã tự giải thoát khỏi mọi sợ hãi, ta sẽ đạt được sự hiểu biết toàn năng giúp ta hiểu được bản chất những người xung quanh và từ đó sẽ tìm được những phương cách thích nghi để giúp họ. Để giúp thực hiện điều ấy, tiết đầu tiên của bài thơ khuyên ta hãy nên cầu khẩn lòng từ bi của Tam Bảo

Quy y là điểm khởi đầu cho mọi việc tu tập, vì thế bài giảng của Ban-Thiền Lạt-ma đã nhắc đến điều này như một ước nguyện tiên khởi. Không quy y khó thành công trong sự tu tập. Thái độ hoàn toàn tin tưởng nơi Tam Bảo cũng chưa đủ. Phật từng nói: « Ta thuyết giảng con đường Giải Thoát cho các con, nhưng phải hiểu rằng sự giải thoát là do chính nơi các con ». Phật chỉ là người Thầy thuyết giảng, Phật không đem tặng cho ta sự giải thoát: chính mỗi người trong chúng ta phải tự trau dồi phẩm hạnh, thiền địnhsáng suốt.

Chẳng hạn như câu thần chú Om Mani Padme Hum[6] , mà người ta thường đọc lên để đánh thức lòng từ bi của chính họ hướng vào tất cả muôn loài sinh vật. Sau khi dứt một loạt niệm chú – hai mươi mốt, một trăm lẽ tám lần, hay nhiều hơn nữa –, hiệu quả của nó sẽ hiển lộ minh bạch hơn trong bài tụng niệm tiếp theo đây, hướng đến Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tượng trưng cụ thể cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Bài tụng niệm như sau:

Nhờ vào đức hạnh tu tập
Tôi ước mong đạt đến trạng thái
Ngang với trạng thái của Quán Thế Âm Bồ Tát
Để giúp đỡ tất cả muôn loài sinh linh đều được ngang hàng như vậy.

Không thể nào đạt được Phật tính bằng cách chỉ niệm câu Om Mani Padme Hum, nhưng nếu sự tụng niệm đi đôi với lòng thương người thật sự, ta có thể đạt được Phật tính. Cũng giống như thế, khi ta thụ giáo, gặp gỡ, hoặc đi nghe một vị thầy giỏi thuyết giảng, sẽ ảnh hưởng đến ta một cách tích cực và giúp ta đạt được những kinh nghiệm tâm linh sâu xa hơn. Lúc khai mạc những buổi hội chính thức, người thầy giám hộ lớn tuổi nhất của tôi là Ling Rinpoché và tôi đều cuối đầu trước mặt nhau đưa trán của chúng tôi chạm vào nhau, hoặc trong những dịp gặp gỡ khác, tôi cầm lấy tay ông đặt lên trán tôi, cử chỉ này truyền sang cho tôi một sức mạnh thật sâu kín làm gia tăng niềm tin tưởng và sự tự tin của tôi. Vào thời Đức Phật, người nào kính trọng và yêu mến thật sự thì ôm lấy chân của Phật, điều đó mang đến điều lành cho họ. Nhưng nếu kẻ nào không có một chút tin tưởng hay kính trọng nào thì dù có ôm lấy chân Phật và đặt trán mình lên chân Phật cũng chẳng có một hiệu quả nào. Nếu người thầy cho nhiều thì người đồ đệ còn phải cho nhiều hơn nữa.

Có một vị Lạt-ma rất tuyệt diệu trong tỉnh Amdo, khi có người nào xin ông đặt tay lên đầu để truyền cho mình điều lành, thì ông vẫn thường nói với họ: « Tôi không phải là một vị Lạt-ma có thể ban bố sự giải thoát bằng cách đặt bàn tay lên đầu của bất cứ ai, vì bản chất của bàn tay đã là đau khổ rồi ». 

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN

 1- Điểm khởi đầu của việc tu tập là sự an lành của tất cả mọi sinh linh – tức là sự giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài để đạt đến sự toàn thiện. Hãy trau dồi chủ đích đó trong trong mục tiêu giúp đỡ kẻ khác nhiều chừng nào hay chừng ấy.

2- Chư Phật thuyết giảng con đường tu học, nhưng không đem tặng ta một kết quả sẵn có nào cả. Mỗi ngày, chính ta phải tự tu tập về đức hạnh, thiền địnhnâng cao sự sáng suốt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26213)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21621)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23403)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14726)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12952)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19824)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13818)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22777)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11985)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12425)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24040)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13730)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21087)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25640)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19246)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23233)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21402)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18330)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13988)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15458)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17875)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21963)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17537)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28070)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17158)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22622)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28229)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14012)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17060)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22311)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14160)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21492)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20826)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28525)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15062)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26597)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19290)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31595)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30649)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21022)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26214)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23576)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25621)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25387)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19731)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18479)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17795)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19059)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant