Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1- Tâm Là Gì?

25 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8355)
1- Tâm Là Gì?

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
 tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÂM LÀ GÌ?


Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng đề tài này tại Brisbane, Úc Đại Lợi vào năm 1991.

Trong bài thuyết giảng này, Rinpoche đã nói về mục tiêu của đời sống và phát triển thái độ đúng đắn đối với sự chết.

Cầu nguyện mở đầu!

Tôi rất vui mừng được gặp gởi tất cả quý vị và như chúng ta chịu trách nhiệm để mang hạnh phúc đến mọi người khác, như mỗi chúng ta chịu trách nhiệm để cống hiến hạnh phúc, nguyên nhân hạnh phúc cho người khác, hạnh phúc của người khác tùy thuộc trên chúng ta, hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc trên những người khác, vì vậy đấy là những gì tôi đang nói đến.

Vậy thì, chủ đề chính mà chúng ta sẽ quán chiếu hay những gì tôi cố gắng để thực hành một ít và đôi khi tôi không lười biếng, khi tôi có thể nhớ, tôi chia sẻ sự thấu hiểu của tôi hay căn bản mà tôi đã học một ít, mà đấy chỉ là một ít từ giáo huấn của Đấng Toàn Giác, những lời dạy của Đức Phật. Do vậy, nếu có điều gì thực tiển, nếu có điều gì lợi ích mà quý vị tìm thấy qua sự phân tích sau đó hãy áp dụng đến đời sống của quý vị.

Do vậy, trước hết tôi nghĩ có lẽ nên đề cập một ít về vấn đề tâm là gì. Không có tâm thức, nếu thân thể không có tâm thức, thế thì không có cách nào mà nó trãi nghiệm hạnh phúc. Vì thế, có thân thểtâm thứcThân thể có thân thô, thân vi tế, và thân cực kỳ vi tế, như thế là có ba thân. Thân thô phù thì có thể dễ dàng để thấu hiểu và rồi thân vi tế, căn bản của chất lỏng, căn bản của thân thể. Sau đó, có thân cực kỳ vi tế, mà đấy là cổ xe của tâm thức cực kỳ vi tế. Do vậy, điều ấy là bất biến, thân thể cực kỳ vi tế bất biến bên trong thân thể tại quả tim, bằng kích thước của hai lồng ngực, trong trung tâm. Rồi thì có, xa như tâm thức , có tâm thức thô, tâm thức vi tế, và tâm thức cực kỳ vi tế, thế là cũng có ba, tối đa là tâm thức có ba loại như thế này. Thế thì tâm thức bất biến cực kỳ vi tế ở nơi nào? Đấy cũng là tại quả tim, bằng kích thước của hai lồng ngực, trong trung tâm, tại quả tim.

Và bây giờ, tâm là gì? Hiện tượng, mà nó không hình tướng, không màu sắc, không hình thể, không vật chất, mà tự nhiêntrong sáng, nhận thức những đối tượng, như tấm gương có thể phản chiếu, tấm gương có thể cho sự phản chiếu trong sáng mọi thứ, của bất cứ thứ gì ở trước nó. Vậy thì giống như thế, tâm thức có thể làm cho đối tượng sáng sủa, đến tâm thức ấy, đối tượng có thể được xuất hiện rõ ràng, bất cứ đối tượng nào, hiện tượng, đến với tâm thức, đối tượng được xuất hiện một cách rõ ràng. Vì vậy, sự nhận thức đối tượng là như thế này. Và đây là sự quy ước thông thường, có hai đặc tính tự nhiên của tâm thức, một là đặc tính quy ước (tục đế) và một là đặc tính bản thể (chân đế). Do vậy sự diễn tả này là đặc tính quy ước.

Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua. Tâm thức hôm qua tồn tại do bởi tâm thức ngày trước nữa, giống như thế, nó đi ngược lại. Tâm thức hôm nay được làm ra bởi tâm thức hôm qua và tâm thức hôm nay sẽ làm nên kết quả của tâm thức ngày mai. Giống như thế, tâm thức của giây phút này được tạo nên bởi tâm thức của giây phút trước và tâm thức hiện tại làm nên trể hơn, tâm thức của giây phút tới. Vì thế đấy là duyên khởi, tâm thứcduyên sinh mỗi lần như thế.

Vì vậy, bất cứ tư tưởng nào cũng có sự lệ thuộc trên đối tượng, vì bởi có sự hiện hữu, đối tượng sau đó có một tư tưởng của đối tượng ấy. Khi đối tượng được nhận thức sau đó có một tư tưởng, vì thế tư tưởng là một sự duyên sinh lệ thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Do thế, đấy là việc chúng ta có thể nhớ nghĩ như thế nào, bởi vì có một sự tương tục của tư tưởng từ ngày hôm qua, hôm nay, vì vậy chúng ta có thể nhớ lại những gì chúng đã làm hôm qua, những gì chúng ta đã thấy hôm qua và những gì chúng ta đã làm năm trước, và v.v… Do vậy, tương tự thế, qua tiến trình, trước tiên cả, chúng ta phải kiểm soát, chúng ta phải phân tích, chúng ta phải học hỏi, chúng ta phải khám phá qua những kinh nghiệm của chúng ta, đấy là khi tâm ý xãy ra trong sự thụ tinh trứng, chúng ta phải phân tích có phải nó đến từ [nơi nào], chúng ta phải nghiên cứu, chúng ta phải phân tích có phải tâm ý đến từ sự tương tục trước đấy của tâm ý hay không . Vì thế chúng ta phải nghiên cứu, chúng ta phải phân tích, chúng ta phải khám phá với kinh nghiệm của chính chúng ta, bằng việc sử dụng tuệ trí của chính chúng ta, bằng sự phát triển tuệ trí của chính chúng ta, rồi thì chúng ta phải khám phá qua kinh nghiệm của chính chúng ta có phải có một tâm ý khác mà nó là sự tương tục của tâm ý ấy, tâm ý đã bắt đầu trong sự thụ thai, trong tử cung của bà mẹ. Nó phải được chứng tỏ với tuệ trí của chính chúng ta. Vì thế dù cách nào cũng qua sự phân tích.

Tuy nhiên, qua thiền quán, nhiều người, nhiều người phương Tây thiền quán, nhiều sinh viên thiền quán cũng như những ai có tâm thức thật trong sáng, những ai có ít chướng ngại, những ai có một tâm thức trong sáng hơn thế thì họ có thể nhớ lại khi nào họ ra khỏi tử cung của bà mẹ, một số có thể nhớ lại lúc họ đang ra khỏi tử cung của bà mẹ, họ có thể nhớ lại những lúc ấy. Một số có thể nhớ lại. Vì thế, qua thiền quán, điều ấy không thể khôngthiền quán. Qua thiền quán họ có thể nhớ lại đời sống trước đời sống này, khi họ phân tích, khi họ quán chiếu lại, qua thiền quán khi họ trở lại tử cung rồi thì, trở lại chính ngay thời điểm tâm ý bắt đầu, tâm ý đã phối hợp với sự thụ tinh,chính thời điểm đầu tiên đã phối hợp với sự thụ thai. Vì thế, trước giây phút ấy khi họ phân tích qua thiền quán, một số người có những hình ảnh rất rõ ràng trong những ký ức của những đời sống quá khứ. Một số đã sống ở Tây Tạng có thể nhớ lại ngay cả nhà bếp, nhà bếp Tây Tạng, có thể nhớ lại nhiều thứ ngay cả bên trong phòng.

Tuy nhiên như đề cập qua thôi miên, một cảm giác rất mạnh mẽ của ngày hôm qua cũng có thể được nhớ lại. Nhưng rồi thì qua phát triển tâm thức trong thiền quán, khi chúng ta tiếp cận tâm thức tại một cấp độ nào đó của con đường [tu tập], sau khi đạt đến sự thiền quán gọi là tịch tĩnh bất biến hay nhất tâm bất loạn, mà chúng ta có thể tập trung [đại định] hàng năm, hàng vô lượng kiếp, tùy theo hành giả mong ước, hành giả có thể tập trung trên một đối tượng mà không có một chướng ngại nào, không có sự xao lãng nào, không có gì phá vở sự tập trung [đại định], mà bất cứ nơi đâu hành giả tập trung tâm thức mình, bất cứ nơi nào hành giả đặt tâm thức của chính mình có thể trụ trên đối tượng ấy như một ngọn núi, giống như đặt một ngọn núi ở đấy, và vì thế có thể trụ tâm trên đối tượng ấy. Điều ấy được phối hợp với một sự tập trung nhất điểm này phối hợp với trạng thái đại định, thân thểtâm thức được tịnh hóa cực kỳ vi tế, trạng thái đại định, đại lạc hay niềm hạnh phúc chân thật, khi được phối hợp với điều ấy, có thể làm cho sự tập trung đại định này [hiện hữu] với kinh nghiệm như thế.

Tuy nhiên, sau khi đạt đến trình độ nhất tâm bất loạn thì chúng ta có thể có những năng lực có thể thấy được quá khứ và tương lai, vì thế trong những hành giả như thế có thể nhớ lại những thời gian như thế, rồi thì cao hơn, khi hành giả thực sự tác chứng những lộ trình cao hơn và cao hơn thế thì họ có thể thấy xa hơn về quá khứ, xa hơn về tương lai. Rồi thì cũng bằng sự thực hành mật tông tantra, những chân ngôn bí mật, có một phương pháp thực hành gọi là Sáu Du Già của Naropa. Đấy là một phương pháp để thực sự chấm dứt tâm thức thô, tư tưởng thô và thực sự tác chứng tâm thức cực kỳ vi tế. Rồi thì có thể sử dụng tâm thức cực kỳ vi tế này để thiền quán, để thân chứng con đường tu tập để có thể thực thi những lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh khác, cho những người khác. Vì thế, hành giả, thiền giả, người thực chứng điều này, tâm thức vi tế; đặc biệt sau khi đạt đến sự thực chứng này, có thể có những năng lực, khả năng tâm linh này. Có thể nhớ lại hàng nghìn đời sống trước đây, hàng nghìn năm trước đây, nơi mà họ đã hiện diện trên thế giới này, xứ sở nào. Giống như thế, quý vị, tự mình là đệ tử của một trong những thánh giả hay đại sĩ nào đã xãy ra trên trái đất này hàng nghìn năm trước. Vì thế, hành giả ấy có thể nhớ lại những đại hành giả như Milarepa, những người thành tựu toàn giác trong một đời, trong một vài năm, trong một thời gian ngắn của thời đại mạt pháp.

Một số hành giả thực sự thực chứng điều này, cũng có những hành giả thực sự tác chứng những điều này qua sự thực hành mật tông tantra, con đường tu tập, sau đó hành giả ấy có thể nhớ lại rằng con người ấy đã từng hiện diện trong thời gian ấy trong một nơi như thế như thế. Những người ấy có thể thấy tương lai và quá khứ. Và điều này là chỉ nói về tâm thức, những khả năng của tâm thứcthể đạt đến sự phát triển cao hơn và cao hơn, sau đó có thể thấy nhiều hiện tượng khác, là những thứ không thể thấy được trước khi tâm thức phát triển [đến trình độ này]. Khi tâm thức phát triển cao siêu hơn, thâm diệu hơn thì có thể thấy nhiều hơn nữa về quá khứ và trong tương lai, vô số những hiện tượng khác nữa, mà tâm thức phàm phu hiện tại không thể thấy được.

Tương tự thế, trước một người đi đến một trường đại học, người ấy không thể hiểu biết tất cả những môn học, những hiện tượng, nhưng bằng việc đi đến trường đại học, nghiên cứu học hỏi sau đó người ấy mới có thể hiểu biết, thấy biết tất cả những môn học khác, tất cả những hiện tượng khác. Giống như vậy, qua thiền quán , giống như điều này dần dần sau đó hành giả phát triển hoàn toàn tâm thức trong tuệ trí, trong sự thông hiểu rồi thì hành giả có thể thấy, có thể thấy một cách trực tiếp tất cả những sự hiện hữu, tất cả những hiện tượng, mỗi sự tồn tại đơn lẻ, trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Mọi thứ đã tồn tại trong quá khứ và sẽ xãy ra trong tương lai cùng liên hệ đến tất cả những hiện tượng đang hiện diện bây giờ.

Tuy thế, vào thời điểm khi tâm thức đã hoàn toàn phát triển, sự thông hiểu hoàn toàn phát triển, vào thời điểm ấy tâm thức hành giả có thể thấy tâm tưởng của mọi người, mọi chúng sinh, trong mỗi giây; hành giả có thể thấy một cách trực tiếp, có thể thấy một cách toàn hảo, qua thời gian ấy, sẽ không có sự cản trở, tâm thức hiện hữu ở khắp mọi nơi. Tại thời điểm tâm thức chúng ta bao trùm chỉ thân thể này, thì chúng ta không thể bao trùm tâm thức chúng ta khác hơn thân thể này, tâm thức chúng ta không thể bao trùm tất cả những đối tượng. Khác hơn thân thể này, tâm thức chúng ta không thể bao hàm. Vì thế có nhiều giới hạn, khi hành giả ở đây, trong khi chúng ta ở đây, tâm thức chúng ta không thể đồng thời ở tại nhà, không thể ở tại bờ biển, hay không thể ở những xứ sở khác nơi chúng ta ao ướcTâm thức chúng ta không thể ở Hy Lạp cùng một lúc, trong khi chúng ta ở đây Úc Đại Lợi cùng một lúc, Hoa Kỳ hay Ba Li của Indonesia, bãi biển Ba LiTâm thức chúng ta không thể ở mọi nơichúng ta mong ước. Vì thế nhằm để ở đấy, thân thể phải đi đến đấy, thân thể phải tiếp nhận rắc rối, thân thể phải đi đến đấy.

Có nhiều giới hạn trong năng lực, có nhiều cản trở, có nhiều giới hạn trong khả năng. Vì thể khi thành công trên con đường tu tập, không có giới hạn, không có chướng ngại. Vào lúc ấy không có thân thô, không có tâm thô, chỉ có thân vi tế và tâm vi tế. Do vậy, không có cản trở, không có chướng ngại, nên tâm thức có thể thâm nhập khắp mọi thứ. Tâm thức có thể thấy mọi thứ và tâm thức có thể thâm nhập mọi hiện tượng. Như tâm thức của thân thể chúng ta có thể thâm nhập ngay hiện tại thân thể chúng ta, và vì thế, tâm thức có thể thấy mọi thứ và nó thâm nhập mọi thứ ngay lúc ấy. Do thế, vào thời điểm ấy sau khi chúng ta có thể tất cả chúng sinh, tất cả sinh vật, những đặc tính của chúng, những trình độ khác nhau của tâm thức, mọi thứ. Vì thế sau đó hành giả có thể thấy mỗi một phương pháp để đưa họ, để giải thoát họ khỏi rắc rối, làm cho họ và để đưa họ vào trong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc, đến hạnh phúc tối hậu, hạnh phúc tối thượng không gì có thể so sánh, thể trạng của tâm toàn giác, tâm thức hiểu biết một cách trọn vẹnHành giả có thể đưa chúng sinh như thế này từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Vì thế, hành giả có thể thấy mỗi một phương pháp thích hợp với tâm thức của họ, vì thế tất cả sự hướng dẫn khác biệt gì nên được ban bố, hành giả có thể thấy một cách chính xác.

Vì thế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo, và có thể biểu hiện…

Tuệ Uyển chuyển ngữ 19/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1584


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10180)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13565)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13705)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22171)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21834)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27346)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17761)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11716)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12312)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25229)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23252)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28555)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22744)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25665)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22265)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13980)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13419)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22428)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26326)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18448)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18947)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34473)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27343)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28360)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21351)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14878)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19190)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10609)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18555)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15656)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13172)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14012)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11783)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11621)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11334)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11877)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19931)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12382)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13934)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13266)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31927)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13423)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12745)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13319)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11877)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21838)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11080)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12886)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant