Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

25 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7400)
2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
 tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÍNH BẢN NHIÊN CỦA TÂM THỨC


Vì thế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo, và có thể biểu hiện ngay cả cho một chúng sinh, hàng trăm, hàng nghìn, và nhiều nữa mà hành giả có thể biểu hiện, trong những thân tướng khác nhau, khi có nhu cầu cần đến, để hóa độ, để hướng dẫn từ hạnh phúc đến hạnh phúc. Giống như thế, rồi lần lần đưa mọi người đến chấm dứt sự chết, tái sinh, và toàn bộ những rắc rối và đưa họ đến tâm thức tối thượng, tâm thức hiểu biết hoàn toàn.

Thế cho nên những lợi ích rộng lớn vô cùng như vậy mà chúng ta có thể cung ứng cho mỗi chúng sinh, với sự giải thoát hoàn toàn, với tuệ trí, hiểu biết trọn vẹn, mà không có một chút si mê, chướng ngại nào cả, và năng lực toàn hảo để khai mở bất cứ sự hướng dẫn, bất cứ phương pháp nào thích ứng với họ để đem họ vào trong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Rồi thì lòng bi mẫn vô hạn cho người khác, lòng bi mẫn không thể lường được cho mỗi chúng sinh, lòng bi mẫn nguyện ước mỗi chúng sinh được giải thoát khỏi những rắc rốinguyên nhân khổ đau và tự mình để làm việc, để tự mình lãnh lấy trách nhiệm ấy, vì thể có lòng từ bi vô hạn, vào lúc ấy lòng từ bi, tâm thức được rèn luyện trong từ bi được hoàn thành, không có gì để phát triển thêm nữa, tuệ trí không có gì để phát triển nữa, không có năng lực nào để phát triển nữa, không có từ bi nào để phát triển nữa. Vì thế, hành giả có thể hóa độ chúng sinh, hướng dẫn mỗi chúng sinh mà không có bất cứ sai sót nhỏ nhiệm nào.

Thế nên điều này là, tất cả chúng ta bây giờ có năng lực ấy, tất cả năng lực để có thể đem tất cả mọi người đi đến chấm dứt tất cả mọi vấn đề rắc rối cũng như nguyên nhân của vấn đề, để đem họ đến hạnh phúc không thể so lường được, thể trạng của tâm thức hiểu biết trọn vẹn, tâm thức hiện tại của chúng ta có tất cả những khả năng ấy, tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ toàn vẹn. Vì thế, bây giờ, bây giờ thế nào, nói một cách chính xác hơn, điều gì thế? Khả năng hay tính bản nhiên giác ngộ trọn vẹn của tâm thứcchúng ta đang có trong sự tương tục tinh thần hiện tại, thế thì cái gì đấy? Bây giờ ở đây chúng ta đi đến tính bản nhiên tối thượng của tâm thức . Điều rõ ràng của tâm thức là có thể làm tất cả những điều này, tức là tâm thức có tất cả những năng lực này, khả năng này, khả năng không thể ngờ được, khả năng vô hạn, niềm hy vọng hay khả năng mà chúng ta có hay tâm thức hiện tại chúng ta phải cống hiến lợi lạc rộng lớn đến mọi chúng sinh.

Vì thế, đấy là tâm thức này, mà tính bản nhiên của nó là trong sángnhận thức đối tượng, cũng như tâm thức này. Tâm thứctoàn bộ năng lực này. Do vậy, bây giờ, tính bản nhiên của tâm thức là gì, đấy là tịnh quang, ánh sáng tinh khiếtVậy thì tịnh quang là gì? Thế nên, chúng ta suy nghĩ, trước khi chúng ta đặt nhãn hiệu tâm thức, trước khi chúng ta mệnh danh “tâm thức”, có một lý do trước khi đấy chúng ta nghĩ. Trước khi chúng ta đặt cho nhãn hiệu có một lý do trước đấy. Lý dochúng ta suy nghĩ, là điều mà làm cho chúng ta quyết định nhãn hiệu đặc thù này, tâm thức, lý do mà làm cho chúng ta quyết định nhãn hiệu đặc thù này của tâm thức, lý do ấy là căn bản, lý do trước khi chúng ta, làm chúng ta quyết định là cái nhãn hiệu, điều được quy cho, tâm thứchiện tượng được quy cho và lý dochúng ta nghĩ trước khi chúng ta mệnh danh tâm thức, nó là căn bản được mệnh danh tâm thức, vì thế nó là hai vấn đề khác nhau. Vì thế, tâm thức là điều không hình thể, không màu sắc, không hình dạng, và là điều mà tính bản nhiên là trong sáng, nhận thức đối tượng, tủy thuộc trên điều này. Thế thì tâm thức của một người, tư tưởng, nhãn hiệu, chỉ đơn thuần quy cho tâm thứcDo bởi lý do này, hiện tượng đặc thù này, là điều khác biệt với thân thể, mà thể hiện chức năng khác với thân thể, bản chất khác với thân thể, chức năng khác với thân thể, rồi thì do bởi điều này người ta làm nên nhãn hiệu “tâm thức”. Do thế, tâm thức là một khái niệm, một nhận thức, hay một ý tưởng.

Tuy thế, có một lý do, trước khi chúng ta gọi tâm thức, có một lý do trước điều này. Rồi thì do sự lệ thuộc trên một lý do nào đấy sau đó chúng ta mệnh danh tâm thức. Nhưng tâm thức chỉ đơn thuần được mệnh danh, điều gọi là tâm thức chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức, bởi tư tưởng. Do thế, không có tâm thức, không có tâm thức thật sự tồn tại từ bản chất của nó. Không có tâm thức độc lập hay không có tâm thức tồn tại một cách cố hữu (tâm thức không có tự tính), [không có] một tâm thức trong ý nghĩa tồn tại một cách cố hữu. Vì thế tâm thức như thế, cách hiện hữu của tâm thức với chúng ta và cách mà chúng ta tin tưởng như thế, một tâm thức độc lập hay tồn tại một cách cố hữu, là trống rỗng, là hoàn toàn trống rỗng, không tồn tại, hoàn toàn rỗng không ngay tại đấy.

Như vậy tâm thức không hiện hữu nhưng như vậy điều gì hiện hữu? Tâm thứcxuất hiện tồn tại một cách cố hữu là không tồn tại, hay trống rỗng ngay đấy, nhưng điều hiện hữutâm thức là điều chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi chính tư tưởng của con người, phụ thuộc trên những lý do này, tùy thuộc trên căn bản này, hiện tượng đặc thù này mà nó là vô hình tướng, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng, nhận thức đối tượng. Do thế, tâm thức này, nó là sự tồn tại biểu hiện chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức nhưng nó trống rỗng sự tồn tại từ bản chất của nó. Vì vậy, đấy chính là tính bản nhiên của tâm thức, đây là tính bản nhiên tối hậu của tâm thức, và đây là ý nghĩa của ánh sáng tinh khiết hay tịnh quang. Đây chính là tính bản nhiên của tâm thức, đây là tính bản nhiên căn bản của tâm thức.

Vậy thì bây giờ, đây là điều gì, đây là khả năng, đây là tính bản nhiên, đây là gì, đây là khả năng, đây là tính bản nhiên của sự toàn giác, mà tôi đã giải thích vừa rồi, đấy là tâm thức giác ngộ trọn vẹn, tuệ trí tròn đầy, tâm thức hiểu biết trọn vẹn, năng lực toàn hảo, lòng bi mẫn vô hạn đối với tất cả chúng sinh. Vì thế, những ai có rắc rối, những ai tâm thức bị chướng ngại, có lỗi lầm, cũng có lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh. Do vậy, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức, tịnh quang, là tính bản nhiên của sự giác ngộ trọn vẹn.

Thế nên, trong tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ tròn đầy, bởi vì hành động của sự toàn giác đang chiếu soi, đang thâm nhập trong sự tương tục tinh thần của chúng ta và cách ấy, nó làm cho chúng ta phát triển tâm thức của chúng ta hay nó làm cho chúng ta tạo nên nguyên nhân của hạnh phúc. Cách này, tâm thức chúng ta trở thành thái độ tích cực và cách này có thể sản sinh hạnh phúc. Rồi thì, trong tính bản nhiên tối thượng, trong tính không, trong tính bản nhiên tối hậu, không có điều khác biệt giữa tính bản nhiên của tâm thức chúng ta và tính bản nhiên của sự toàn giác. Do vậy, điều này có liên hệ một cách chính đáng, bất cứ danh xưng khác biệt mà con người sử dụng, bất cứ tín ngưỡngcon người theo đuổi, con người có thể liên hệ đến điều này, bất cứ cách nào, trên thế gian, người ta hầu hết tin tưởng rằng có kẻ nào đấy tối thượng, có kẻ nào đấy có năng lực tối cao, có năng lực tuyệt hảo nhất, kẻ ban bố sự hướng dẫn, có ai đấy, có một chúng sinh tối thượng, có kẻ nào đấy hiểu biết trọn vẹn nhất, có kẻ nào đấy là tối thượng.

Vì vậy, tùy thuộc trên tín ngưỡng khác biệt, do thế có người gọi là Đức Phật, có người gọi là Thượng Đế, do vậy một cách thông thường có một niềm tin rằng có chúng sinh tối cao. Vì thế, mặc dù nó không rõ ràng, mặc dù không có sự hiểu biết rõ ràng điều gì đấy một cách chính xác, tất cả những phẩm chất, tuy thế có niểm tin một cách phổ biến, hầu hết mọi người có một niềm tin rằng có ai đấy là tối thượng, do thế điều ấy hiện hữu phù hợp đến niềm tin của con người rồi đưa ra những nhãn hiệu khác nhau. Một số dùng chữ Thượng Đế, Thiên Chúa, một số gọi là Đức Phật, Đấng Toàn Giác, và v.v… Thế nên điều này, điều này tôi đang diễn tả bây giờ, điều này, một số người, ngay cả Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo, đây là vấn đề liên hệ giống như điều này. Rằng Thượng Đế hay Đức Phật hay Tính Toàn Giác đang hoạt động trong tâm thức quý vị. Vì thế tùy theo tín ngưỡng của con người, có thể liên hệ đến [như thế nào đấy trong danh xưng].

Tuy nhiên, trong tính không, trong tính bản nhiên tối hậu, không có gì khác biệt giữa tính bản nhiên tối hậu của tâm thức hiện tại của con người, mặc dù tâm thức hiện tại này bị chướng ngại, không thanh tịnh, bị chướng ngại, nhưng trong tính bản nhiên tối hậu, trong tính không, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức con người, tâm thức mà bây giờ chướng ngại, điều với biểu hiện thời gian, và tính bản nhiên tối hậu của tâm toàn giác hay hay bất cứ điều gì mà con người gọi, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức thánh thiện của Thượng Đế. Không thể tách rời, không có sự khác biệt, đến tận cùng của tính bản nhiên nền tảng không có sự khác biệt giữa chúng, [giữa] tính bản nhiên thiết yếu của tâm thức hiện tại của con người vốn dĩ mê muội (vọng tâm) và điều hoàn toàn thanh tịnh (chân tâm), cả hai thứ không có gì khác biệt. Có sự khác biệt căn bản, căn bản của tính bản nhiên nền tảng, điều được hổ trợ và điều hổ trợ. Tính bản nhiên nền tảng phụ thuộc trên tâm thức, nó tồn tại bởi sự lệ thuộc trên tâm thứcTâm thức là hổ trợ hay lệ thuộc. Vì thế, căn bản, sự hổ trợ, tâm thức, có những sự khác biệt, điều này là bất tịnh và điều kia là hoàn toàn thanh tịnh, nhưng ngoại trừ đấy là sự khác biệt nhưng trong tính bản nhiên thiết yếu, không có sự khác biệt giữa hai thứ này. Vì thế đấy là một, [nên] tâm thức chúng ta có tất cả những khả năng , khả năng hay tính bản nhiên của một chúng sinh giác ngộ trọn vẹn.

Thứ ba là, trong tính bản nhiên của tâm thức đấy là khả năng mà con người có thể chuyển hóa thân thể trở thành một thân thể hoàn toàn thanh tịnh thánh thiện; hình tướng của thân thể hoàn toàn thánh thiện thanh tịnh, những khía cạnh khác biệt ấy, [là để] hướng dẫn những chúng sinh khác, để làm lợi ích cho chúng sinh, để đưa họ đến, để khai mở, để hướng dẫn vào con đường [giải thoát giác ngộ], để đưa họ từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc không thể so sánh , sự giác ngộ trọn vẹn. Do thế, vì ba lý do này, nên trong tâm thức chúng ta có khả năng hay tính bản nhiên của một chúng sinh giác ngộ tròn đủ.

Vì thế bây giờ, tính bản nhiên trong sáng của tâm thức, điều này thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi si mê, tâm thức không thỏa mãn dính mắc, sân hận, kiêu căng, nghi ngờ, tà kiến sai lầm. Tính bản nhiên của tâm thức không là một với vị kỷ, tự ngã; tính bản nhiên của tâm thức không là một với tư tưởng tự kỷ, nó không là một với tự ngã. Điều này, do bởi thế, nó là là thanh tịnh, tính bản nhiên của tâm thứcthanh tịnh, do bởi ý nghĩa đấy, vì nó không là một với những sai lầm của tâm thức, nó không là một với tội lỗi, không là một với những lỗi lầm.

Vì thế, những lỗi lầm đó là tạm thời, giống như thời tiết, bầu trời không là một với sương mù, những đám mây đó, nó chỉ tạm thời bị che phủ bởi sương mù và mây. Bởi vì bầu trời không là một với những đám mây, vì qua những nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên) nào đấy, những đám mây và sương mù đó đến nhưng những nhân duyên khác chúng sẽ được dọn đi. Bầu trời sẽ trở nên rất trong sáng, có thể cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống mặt đất, rồi thì có thể cho con người nhiều sự sướng vui, nhiều niềm hạnh phúc giải thoát nhiều rắc rối, chứ không như lúc không có ánh sáng; vì thế có thể ban cho nhiều niềm thú vị, để gieo trồng cây cối, mùa màng, và v.v… Cũng giống như vậy [những lỗi lầm hay sự âm u của bầu trời] là tạm thời, như thời tiết xấu, [bầu trời] đầy sương mù và lạnh và những cơn mưa đá và v.v…, điều ấy không phải mãi mãi, nó là tạm thời.

Tương tự như thế, tấm gương bị bao phủ bởi bụi mờ, nó không phải mãi mãi, nó là tạm thời. Vì thế qua những nhân duyên khác, nó bị lu mờ bởi bụi bám nhưng qua những nhân duyên khác nó có thể được lau sạch. Cũng giống như vậy, tương tự, tâm thức không kiên nhẫn, tâm thức vị kỷ, v.v…, chính sự không hài lòng, quá mạnh tham dục, tất cả những thứ này, những lỗi lầmchúng ta đã làm, tất cả những thứ này không phải mãi mãi như vậy, chúng là tạm thời. Do thế qua những nhân duyên khác, chúng vì thế sẽ được dọn dẹp hay chúng sẽ tẩy trừ. Thế đấy, tâm thức này có thể được giải thoát khỏi tất cả những thứ ấy, rằng tâm thức này sẽ trở nên thanh tịnh, được tự do khỏi những thứ này, do lệ thuộc trên những nhân duyên khác.

Thế nên, giống như vậy, thí dụ, sửa có khả năng sản xuất bơ, nhưng nó tùy thuộc trên những điều kiện khác, nó tùy thuộc trên điều kiện cần có để làm cho sửa sản xuất ra bơ. Ở Tây Tạng, người ta đặt sửa trong trong thùng làm bơ, chiếc thùng này làm bằng gỗ hay tre hay bất cứ thứ gì, rồi thì chiếc thùng, rồi thì bằng việc lệ thuộc trên điều kiện ấy, rồi thì bằng việc gặp gở điều kiện ấy mới sản xuất ra bơ. Tương tự thế, chiếc chiêng, chiếc chiêng có khả năng tạo ra âm thinh, nhưng cho đến khi nó gặp điều kiện, có người thỉnh chiếc chiêng một cái bằng cái dùi, đánh vào chiếc chiêng, và cho đến khi điều kiện ấy xãy ra, âm thinh sẽ không phát ra, tiếng chiêng không phát ra. Do thế, khả năng ở đấy, đấy là yêu cầu gặp gở điều kiện, đùi chiêng, đánh, chạm vào chiếc chiêng. Thế nên giống như vậy, tâm thức này có tất cả những khả năng để đạt đến bất cứ hạnh phúc nào, đạt đến bất cứ cấp độ nào của hạnh phúc, để đem đến lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh khác…

Tuệ Uyển chuyển ngữ - 10/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1589



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10202)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11259)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13596)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13750)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22229)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21880)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27394)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17804)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11744)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12332)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28600)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22788)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14007)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13446)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22499)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18496)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18978)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34535)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27403)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28440)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21407)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19225)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10624)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18583)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15669)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13198)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13431)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14033)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11797)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11637)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11348)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11906)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19953)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12402)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13278)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32001)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13447)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12760)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13341)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21878)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11103)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12912)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant