Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luân HồiTái Sanh

27 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7606)
Luân Hồi Và Tái Sanh

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 & Mike Austin
VẦNG SÁNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG

Thích Nhuận Châu dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Lao Động

LUÂN HỒITÁI SANH


MIKE AUSTIN: Xin ngài giải thích rõ từ quan điểm của đạo Phật, một cách chính xác những gì xảy ra về mặt sinh lý học trong toàn bộ tiến trình luân hồi sinh tử và tái sanh?

ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có bốn trạng thái phải trải qua trong một đời người. Trạng thái sinh ra được cho là hết sức ngắn ngủi, chỉ ngay trong khoảnh khắc của sự thụ thai. Khoảnh khắc kế tiếp mới là sự khởi đầu của trạng tháithời gian đầu tiên, kéo dài từ khi thân thể thô trọng bắt đầu hình thành cho đến khi chết. Rồi trong suốt trạng thái chết, ngay cả khi diễn ra trong thân xác già nua, mối quan hệ của lực nâng đỡ cho thức và cái mà thức nâng đỡ ở trong thân rất là dữ dội. Vào đúng thời điểm chết, mối quan hệ của thức được nâng đỡ bởi nền tảng vật chất chỉ còn được diễn ra ở mức độ vi tế nhất. Vào thời điểm này, tâm thức cá nhân được nối kết với nguồn nội lực vi tế nhất, hay còn gọi là ‘khí’. Với người sẽ trải qua trạng thái thân trung ấm hay bardo, ngay khi trạng thái chết chấm dứt thì trạng thái thân trung ấm liền bắt đầu.


Trong trạng thái thân trung ấm, dù chúng sinh không có một thân vật lý thô trọng, nhưng họ cũng có một sắc thể - có được do sự tương tác giữa luồng khí nội lực và thần thức. Nó thô trọng hơn so với thân vi tế nhất, nhưng vi tế hơn so với thân vật chất thông thường mà chúng ta nhìn thấy.


MIKE AUSTIN: Nó có hình dáng không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ! Có. Nó sẽ mang hình dáng của loài chúng sinh mà nó sẽ tái sinh. Tuy nhiên, có những giáo lý nói rằng trong nửa đầu của giai đoạn thân trung ấm, thân bardo có hình dáng của thân quá khứ vừa qua, và trong nửa sau đó có thân của đời sống sắp tới. Cứ mỗi 7 ngày lại có một cái chết nhỏ diễn ra trong thân trung ấm. Với 7 lần chết như thế, thân trung ấm có khả năng duy trì cho đến tuần thứ 7, nhưng không thể lâu hơn. Vào lúc đó người chết sẽ quyết định tái sinh. Chúng sinh khi mang thân trung ấm cũng giống như chư thiên hay quỷ thần, không có thân vật chất nặng nề vốn có nhiều giới hạn. Chúng ta không thể nhìn thấy họ bằng mắt thường. Trong số những chúng sinh không có thân vật chất nặng nề - không chỉ là những chúng sinh mang thân bardo - có rất nhiều loài như: chư thiên, a-tu-la, quỷ thần, v.v... Như trong xã hội loài người có những người không tu tập Phật pháp, có những người tu tập chút ít, có người tu tập nhiều hơn, có người tu tập ít hơn. Các vị tiên tri nói chung cũng là người như chúng ta, vẫn ở trong luân hồi. Những chúng sinh như Chenrezi trong cảnh giới của chư thiên là những người đã giác ngộ. Ở đây có rất nhiều dạng Chenrezi. Tâm từ bi của chư Phật nói chung, hóa thân của các ngài bằng hình tướng được gọi là Chenrezi. Như vậy dạng Chenrezi này không phải là một cá thể chúng sinh. Tuy nhiên, giống như đức Phật Thích-ca Mâu-ni là một con người đặc biệt, cũng có Chenrezi là một con người đặc biệt. Còn có những người thường như chúng ta có thể nhận vị Chenrezi làm hộ thần. Khi những người này được giác ngộ, họ sẽ xuất hiện dưới hình tướng của vị Chenrezi. Bởi vì vị ấy trong giai đoạn gia hạnh vị của Vô thượng Du-già Tan-tra quả thật đã tự phát huy chính mình, nên vị ấy được nhận danh xưng là Chenrezi. Tuy nhiên, vị ấy không nhất thiết chỉ tiếp tục thị hiện như một Chenrezi, mà đồng thời còn có thể thị hiện trong nhiều hình tướng khác.


Từ góc độ của một vị Phật, người ta chỉ có thể nói rằng một Sắc thân nào đó là dạng tối hậu hoặc cao nhất, nhưng không thể nói rằng về mặt tâm linh có những dạng này hay dạng khác. Sắc thân hiện ra đồng thời trong nhiều dạng khác nhau tương ứng với nhu cầu của người được giáo hóatùy thuộc vào hạnh nguyện trong đời trước của vị Phật đó. Do vậy, một vị Phật thường tự nhiênđồng thời thị hiện trong vẻ ngoài của các vị Chenrezi, Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc, v.v... tùy theo sự mong cầu của người được giáo hóa.


MIKE AUSTIN: Liên quan đến việc này, ngài đã biết câu chuyện về Jesus Christ, ngài nghĩ như thế nào?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Mặc dù người ta không thể nói một cách chắc chắn, nhưng có vẻ như đây là trường hợp của một chúng sinh giác ngộ thị hiện theo cách thích hợp để dẫn dắt những chúng sinh khác. Tuy thế, có thể chắc chắn rằng ông ta là một chúng sinh nổi bật.


MIKE AUSTIN: Những sự thị hiện này có vẻ giống như những hình chiếu có dạng sắc thân của một chúng sinh bậc cao; liệu những hình chiếu này có một ngã thức tương đối không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có rất nhiều khả năng. Chẳng hạn, một vị Bồ Tátnăng lực biến hóa có thể hóa thân thành một chúng sinh nào đó. Vậy thì chúng sinh đó sẽ có ý thức về “cái tôi”. Tuy nhiên, nếu chúng sinh đó lại tiếp tục biến hóa thành một hình tướng khác, thì hình tướng ấy có thể có vẻ như một con người, nhưng thật không phải vậy. Thế nên có nhiều trường hợp. Một số trường hợpý thức về “cái tôi”, một số trường hợp lại không có.


MIKE AUSTIN: Trường hợp biến hóa lần thứ hai hẳn phải là một thân có thực với tâm thức có thực nhưng không có ý thức về “cái tôi”?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Hóa thân lần thứ hai có thể thực hiện chức năng của một con người, nhưng không phải là một con người riêng biệt. Chẳng hạn, nếu một bậc giác ngộ cùng lúc hóa thân thành 100 hình tướng, đó chẳng phải là có đến 100 người, mà vẫn chỉ là một người ở trung tâm điểm mà thôi.


MIKE AUSTIN: Liệu người tạo thành các hóa thân ấy có đồng thời nhận biết được mọi việc đang xảy ra đối với 100 hóa thân kia hay không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ở đây có nhiều cấp độ. Đối với những vị chứng ngộquả vị thấp hơn thì họ nhất thiết phải điều khiển từng hóa thân riêng biệt. Đối với những vị chứng ngộquả vị cao hơn thì những hóa thân của họ có thể tự hoạt động. Yếu tính ứng tác và hoạt dụng tùy ýliên quan ở đây. Đó là sự khác nhau ở chỗ sự điều khiển các hóa thân nằm ở đâu. Khi một vị giác ngộ có thể tùy cơ hóa hiện nhiều hóa thân tùy ý, thì mỗi hóa thân đều sẽ tự hoạt động.


MIKE AUSTIN: Liệu mỗi hóa thân ấy có đồng thời nhận biết bản ngã của chính mình cũng như sự hiện hữu của mình như một hóa thân?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có. Có những trường hợp mà trong 100 hóa thân, mỗi thân đều biết các thân khác đang làm gì. Đối với một vị Phật hay Bồ Tát thì điều này chắc chắn là đúng. Nhưng điều này rất khó giải thích. Chỉ đến khi mỗi người tự thân chứng mới có thể hiểu được, bằng không thì người ta có thể nghĩ rằng đây chỉ là những lời vô nghĩa. Giống như là chuyện khoa học giả tưởng hay sự tưởng tượng trong tôn giáo. (cười)

MIKE AUSTIN: Ngài cảm nhận hệ thống các vị Chu-cô như ở Tây Tạng là xác thực đến mức nào? Có bao nhiêu vị Lạt-ma tái sinh được phát hiện trong quá khứ mà ngài cho là chân xác?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ! Điều ấy rất khó. Có hai điều rất quan trọng trong việc này. Một là việc khảo sát vị Chu-cô phải được thực hiện rất toàn diện. Việc khảo sát hay tìm hiểu này rất dễ bị thực hiện một cách không thích hợp. Thứ hai, chúng ta phải thấy được cung cách sống của vị Chu-cô đó như thế nào. Chúng ta cũng phải đánh giá sự việc qua điều đó. Mục tiêu đích thật của sự tự nguyện tái sinh là tạo ra được kết quả tốt đẹp nào đó. Nếu không có kết quả tốt đẹp, thì đó là điều đáng ngờ. Vị tái sinh sẽ sinh trở lại cuộc đời với sự chọn lựa có chủ ý, với mục đích kiên địnhphụng sự chúng sinh qua phương tiện tôn giáo hoặc các phương tiện khác. Dù sao cũng phải có một kết quả cụ thể nào đó. Với một số trường hợp không có kết quả tốt, tôi nghi ngờ. Vì thế tôi cho rằng khả năng xác thực là năm mươi phần trăm. Có thể là tôi đã có phần chủ quan khi nói ra điều này.


MIKE AUSTIN: Tôi biết là thật khó khái quát hóa vấn đề. Việc phát hiện các vị tái sinh được tiến hành như thế nào từ khi ngài sống lưu vong?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vẫn còn một số ít vị đang được nhận diện. Một số vị đã hoàn toàn xác thực. Chủ yếu là căn cứ vào cách ứng xử riêng của đứa trẻ: cho thấy những dấu hiệu rất đặc biệt.


MIKE AUSTIN: Tất nhiên là có sự giảm thiểu số lượng, phải vậy không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Giảm rất nhiều! Bạn thấy đấy, dân số trước đây là 6 triệu người. Nay chỉ còn có 100.000. Nếu bạn so sánh, tôi nghĩ là đã thấy giảm đi rất nhiều. (cười) Chúng ta cũng có một số vị Lạt-ma người Mỹ. (cười)

MIKE AUSTIN: Điều ấy có nghĩa là gì?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng. Tôi nghĩ ít nhất đã có hai người Mỹ được công nhận là Lạt-ma Tây Tạng


MIKE AUSTIN: Ngài có thể nói đôi điều về họ?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi chẳng biết gì nhiều.


MIKE AUSTIN: Tiến trình công nhận được áp dụng cho hai trường hợp này như thế nào? Cùng một phương pháp chăng? 


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có thể là bọn họ đã tự thẩm định việc ấy. Tôi không biết chi tiết.


MIKE AUSTIN: Ngài không đích thân chuẩn nhận họ sao?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi chẳng liên quan gì đến việc này cả.


MIKE AUSTIN: Tôi muốn đưa ra một trường hợp tương tự với những điều ngài vừa nói về một vị giác ngộ có vô số hóa thân. Giả sử có 100 tỉ tỉ tế bào trong thân người. Mỗi tế bào thực hiện các chức năng như thể biểu hiện rằng nó có một tâm thức riêng biệt. Dù vậy tất cả đều nằm dưới sự kiểm soát của cùng một cơ thể. Liệu tất cả những sinh thể này có thể được xem là như nhau, như là các phần của một cơ thể? Nói cách khác, như là các phần hoặc là các hóa thân của một cơ thể duy nhất?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Mọi chúng sinh đều có chung một trải nghiệm - trong ý nghĩa chúng sinh cùng dạng - trong đó bản chất tâm thức của họ chỉ là sự chiếu tri. Ngoài ra, họ không có sự liên kết với nhau. Nếu bạn giả định rằng có nhiều chúng sinh sinh ra từ một nguồn như Thượng đế, thì câu trả lời là không.


MIKE AUSTIN: Ngài thấy rằng họ độc lập với nhau?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy. Họ tách biệt với nhau. Ngay cả khi được giác ngộ, họ vẫn là tách biệt, dù sự chứng ngộ của họ là giống nhau.


MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ gì về bản chất tâm thức của 100 tỉ tỉ tế bào?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không phải là có một thức thân bao quát hết chúng đó sao? Chẳng hạn, nơi mà nhãn quan hiện hữu, ngay trong phạm vi vật thể, nhãn thức duy trì hoặc bao quát cả phạm vi đó. Cùng lúc đó, thức thân cũng hoạt dụng như vậy. Thức thân biến hành khắp thân thể.


MIKE AUSTIN: Trong mỗi tế bào của con người này, như chúng ta đã thảo luận trước đây, có hàng ngàn gene, là những phần nhỏ mang mã số hóa học quyết định tính chất của toàn bộ cơ thể cũng như những chức năng riêng biệt của tế bào chứa nó. Ngay trong mỗi tế bào đã bao hàm mã số hoàn chỉnh về toàn bộ con người, nhưng chỉ có một gene được kích hoạt để tạo ra dạng thể cần thiết cho vai trò của nó, chẳng hạn như móng chân, con mắt, hay tế bào ngón tay. Ngài cho rằng cái gì đã quyết định thực tế là chính gene cần thiết mới được kích hoạt mà không phải gene nào khác?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đây là một chức năng vật lí. Chính là cơ thể, không phải tâm thức. Sự việc được kiểm soát bởi tâm thức, nhưng cơ thể thực hiện chức năng đó.


MIKE AUSTIN: Trước đây ngài có nói rằng tâm thức, và vì thế là chúng sinh, là không có điểm khởi đầu (vô thủy). Vậy thì trí nhớ của một chúng sinh có thể đi ngược lại đến mức nào trong quá khứ? Vô tận chăng?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đối với những người không tu tập, khi tâm thức càng trở nên vi tế - như vào lúc chết - họ càng trở nên ít tỉnh thức hơn. Tuy nhiên, đối với người có sự tu tập để vận dụng tâm thức, họ lại càng có sự tỉnh giác lớn hơn và kí ức lớn hơn khi những trạng thái vi tế hơn được thể hiện. Trong số những người tôi biết, có những vị khi tâm thức vi tế hơn hiện hành thì họ rõ ràng là có thể nhớ lại đến bảy, tám trăm hoặc cả ngàn năm trước bằng tâm thức ấy.


MIKE AUSTIN: Trí nhớ ấy có thể nhớ lại được bao xa? Vô hạn chăng?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Để nhớ ngược về một quãng thời gian rất dài, chỉ tạo ra và vận dụng tâm thức vi tế thôi chưa đủ. Với thời gian lâu xa, rất lâu xa, cần thiết phải loại bỏ mọi chướng ngại dẫn đến sự toàn tri (nhất thiết trí). Tôi muốn nói đến sự cảm nhận rất siêu việt với những đối tượng rất xa trong thời giankhông gian. Chẳng hạn, dù đã có được năng lực đại thần thông nhưng ngài Xá-lợi-phất vẫn không biết rõ được những căn cơ rất vi tế của một đệ tử nào đó, nhưng đức Phật thì biết được.


Mẹ của ngài Mục-kiền-liên đang ở một nơi rất xa xôi về cả thời giankhông gian và ngài không biết bà ở đâu, nhưng đức Phật biết. Vì đối tượng có thể cảm nhận một cách siêu việt về thời giankhông gian, nên sự thể hiện của tâm thức vi tế là chưa đủ. Hành giả còn phải vượt qua những chướng ngại đối với nhất thiết trí nữa.


MIKE AUSTIN: Có phải ngài muốn nói rằng khi những chướng ngại này được vượt qua, thì cả không gianthời gian đều được loại trừ - rằng sự hiểu biết về những sự kiện ở khắp nơi trong vũ trụ, trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều đồng thời xuất hiện?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Thời giankhông gian đều là tương đối. Chúng là tương đối so với từng tâm thức cụ thể. Khoảng thời gian đối với chúng ta là một năm, thì đối với một người có tâm thức vi tế hơn có thể chỉ là một khoảng thời gian ngắn hơn. Cũng vậy, một người khi đạt được năng lực thiền định đẳng trì có thể chuyển hóa hay thay đổi một sát-na thành một kiếp hoặc một kiếp thành một sát-na, nghĩa là, chỉ riêng đối với người ấy thôi.


MIKE AUSTIN: Kí ức được lưu giữ ở đâu?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không chỉ là trong não bộ. Vào những quãng thời gian như chúng ta đang thảo luận, không cần thiết phải có một bộ não. Chỉ riêng tâm thức có thể hiểu được những sự kiện trong quá khứ. Nhưng phải là với tâm thức vi tế. Chẳng hạn, khi tâm thức vi tế cực quang hiển lộ vào lúc lâm chung, bộ não đã hoàn toàn dừng lại. Xét về sự nhận biết của nó, đây được gọi là thức; và xét về sự kết hợp hay chuyển động hướng đến đối tượng của nó, đây được gọi là luồng nội khí hay năng lực bên trong. Tâm thức và luồng nội khí bên trong rất vi tế này là một thực thể bất khả phân. Chúng là một thực thể được phân chia chỉ trong tư tưởng hoặc bởi những đối tượng ngược lại.


MIKE AUSTIN: Trong luồng năng lực - tâm thức này còn có những vết tích hoặc dấu ấn trong đó còn lưu lại mọi kí ức không? Phải chăng chính thời điểm này cũng đang được ghi lại vào đó?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy. Nếu bạn nhớ lại được kiếp trước của mình, thì bộ não của kiếp trước đã không còn nữa, và bộ não hiện nay chỉ mới hình thành, phải không? Thế nên các hình ảnh chỉ có thể được ghi lại trong tâm thức. Điều này tương tự như những gì mà vị hiệu trưởng của trường Đại học Virginia đã mô tả với tôi về sự thay đổi hoàn toàn các tế bào não trong chu kỳ nhiều năm.


MIKE AUSTIN: Năng lượng - tâm thức vi tế nhất này, phải chăng chính là cái tạo ra sự tách biệt của mỗi một chúng sinh? Có phải chăng đây là điểm phân biệt căn bản nhất giữa người này và người khác?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có một “cái tôi” đơn thuần được biểu hiện tùy thuộc vào sự tương tục của tâm thức. Có hai loại “cái tôi” hay bản ngã: một thô trọng hơn và một vi tế hơn. Có một “cái tôi” được biểu hiện tùy thuộc vào thân và tâm thô trọng, và có một “cái tôi” được biểu hiện tùy thuộc vào tâm thức vi tếnăng lực. Khi cái này hiện hành, thì cái kia không có.


MIKE AUSTIN: Có phải tâm thức liên quan đến luồng năng lực vi tế nhất vốn không có điểm khởi đầu, hay nó là công năng thứ yếu của luồng tâm thức -năng lực được quy về cho chính nó?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Năng lựctâm thức vi tếnăng lực nội tại chính là nền tảng để thể hiện “cái tôi” vi tế. Khi bạn nói về sự thể hiện “cái tôi” trong năng lực của tâm này, người tạo tác không cần thiết phải thực sự có ở trong đó. Có người đã đặt câu hỏi với một vị Geshe lỗi lạc. Anh ta hỏi rằng nếu có người ở trong nhà, nhìn vào cây cột, thì cây cột ấy được xem là tồn tại qua ý tưởng, và anh ta có thể hiểu được điều đó, nhưng khi không có ai trong nhà, làm sao cây cột ấy hiển thị ra được?


Vị Geshe đáp rằng: “Đúng vậy, dường như khó thật.” Rồi ngay khi người ấy rời đi, vị Geshe quay sang người bạn bên cạnh và nói: “Này, người này dường như nghĩ rằng một tâm thức biểu hiện phải được bao quanh và gắn chặt với mọi đối tượng.” Bởi vậy, bạn thấy đó, điều này có nghĩa như vậy. Sự kiện một đối tượng thể hiện không thể xác lập tồn tại tuyệt đối khi tìm kiếm qua phân tích có nghĩa là đối tượng đó nhất thiết chỉ được thể hiện qua ý niệm trong tâm thức. Khi bạn khảo sát xem nó được thể hiện do ý thức của người này hay người kia, rốt cùng bạn không thể tìm thấy ở đâu cả. Điều này được xem như là một kiểu phân tích tột cùng một thực thể nào đó đang biểu hiện qua khái niệm. Bạn không thể tìm được nó. Như vậy, việc những vật thể hiện hữu qua ý niệm cũng là không có sự tồn tại tự hữu. Đó cũng là không.


MIKE AUSTIN: Tôi không chắc là đã hiểu được. Có phải “cái tôi” chính là tâm thức vi tế?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cái “tôi” thô động được thể hiện nhờ vào thân và tâm thô trọng. Nhưng ngay cả khi thân tâm ấy không hoạt động, thì vẫn có “cái tôi” biểu hiện. Có nghĩa là biểu hiện đối với thân và tâm vi tế đang hiện hữu. Chẳng hạn, một hành giả Du-già bậc cao có thể biểu hiện tâm thức vi tế hơn, và cùng một lúc quán sát được các hiện tượng thông thườn. Đối với vị ấy có một bản năng tự nhiên về “cái tôi” - không phải trong “cái tôi” thô trọng, mà là một “cái tôi” vi tế hơn được thể hiện qua tâm và thân vi tế. Chẳng có gì khác để mặc nhiên thừa nhận. Nếu tâm thức rất vi tế hoặc là luồng năng lượng được mặc nhiên thừa nhận như là chính “cái tôi”, hẳn phải có sai lầm như đã được nêu ra trong Căn bản trung quán luận tụng của ngài Long Thụ, rằng người thực hiện và đối tượng là một, cái biểu hiện và sự biểu hiện, người chiếm hữu và vật bị chiếm hữu.


Chẳng hạn, khi bạn nói “tâm tôi”, người điều khiển hay chủ nhân là “cái tôi”. Trong trường hợp bạn đang miêu tả, người làm chủ và đối tượng của sự làm chủ sẽ là một - điều ấy không thể được. Nếu bạn mặc nhiên thừa nhận một trong những điều này thực sự là “cái tôi” thì sẽ mắc phải sai lầm này. Do vậy, điều ấy không đúng.


MIKE AUSTIN: Điều gì sẽ xảy ra trong tâm thức - luồng nội lực vi tế nhất khi một người được giác ngộ?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cái “tôi” của một vị Phật, bản ngã của một vị Phật, là “cái tôi” vi tế này. Ở quả vị Phật sẽ không còn luồng nội khí và tâm thô trọng. Hoạt dụng của cả năm giác quan đều được tự thực hiện bởi luồng nội lực và tâm vi tế. Bởi vì đó có nghĩa là tất cả đồng thời hiện hữu. Đó là tâm thức toàn tri (nhất thiết trí). Thế nên, vào thời điểm tột cùng của Kim cang dụ địnhhành giả đạt được trong tiến trình hướng đến bốn chuyển thức, và như vậy nên chỉ có cực quang tâm thức là còn lại; hành giả không còn tái hiện trở lại mức độ thô trọng của tâm thức nữa. Như vậy, chỉ có cái “tôi” vi tế được thể hiện trong tâm thức vi tế. Chẳng hạn, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện qua thân tướng thô trọng để chúng ta có thể tiếp xúc được, đối với ngài bạn có thể thừa nhận một “cái tôi” thô trọng, nhưng đó chỉ là hiện tướng của tâm vi tế kia.


MIKE AUSTIN: Tôi xin hỏi ngài vài điều về tiến trình của ký ức. Khi phôi người phát triển, nó trải qua tất cả những giai đoạn tiến hóa từ loài cá đến động vật có vú, v.v... Theo ngài, tại sao phải lập lại mọi tiến trình như vậy?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Do năm thành tố căn bản và năm luồng nội khí hoặc nội lực hiện hành đang chi phối thể trạng con người. Phải có điều gì đó tác động đến sự hình thành thực sự của những luồng nội khí này trong thân mới, nhưng tôi không biết rõ điều này.

MIKE AUSTIN: Và ký ức từ những phần tạo tác trong quá khứ có sẵn trong mỗi dòng nội khí đang luân lưu khi chúng tạo ra hình thể vật chất?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Luồng nội khí rất vi tế này chỉ cho dạng rất vi tế của luồng gió sinh động nâng đỡ thể chất. Luồng khí đi lên - tức gió chuyển động, có sự liên hệ với giọng nói, nước bọt, và những thứ khác. Luồng gió hiện hữu khắp nơi có tác dụng trên toàn thân thể. Yếu tố lửa - cùng với yếu tố gió, có tác dụng tiêu hóa thực phẩm và làm tăng trưởng các thành tố khác trong cơ thể. Luồng nội khí hướng xuống dưới - luồng gió bài tiết có tác dụng đối với sự tăng trưởng, duy trìvận hành tinh dịch, máu huyết, phân, nước tiểu, v.v...Tôi nhớ không hết chi tiết điều này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26191)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21586)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23382)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14718)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12943)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19801)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13807)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22774)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11983)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12422)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24034)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13719)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21075)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25618)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19246)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23225)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21397)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18319)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13979)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15450)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17868)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21947)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17531)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28062)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17155)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22617)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28215)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14004)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17040)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22298)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14155)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21481)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20809)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28514)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15057)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26585)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19277)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31580)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30602)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 20996)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26184)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23555)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25603)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25367)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19709)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18452)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17782)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19051)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant